[SGK Scan] ✅ Quan Âm Thị Kính – Sách Giáo Khoa – Học Online Cùng https://suachuatulanh.edu.vn

24/12/2022 admin

Quan Âm Thị KínhQuan Âm Thị Kính

Quan Âm Thị Kính

Quan Âm Thị KínhQuan Âm Thị KínhQuan Âm Thị Kính

Quan Âm Thị KínhQuan Âm Thị KínhQuan Âm Thị Kính

Xem thêm: Văn phòng là gì? Công việc nhân viên văn phòng là làm gì?

Quan Âm Thị KínhQuan Âm Thị Kính
Quan Âm Thị Kính –
Hiểu được một số ít đặc thù của sân khấu chèo truyền thống lịch sử. Nắm được tóm tắt nội dung vở chèo Quan Âm Thị Kính, nội dung, ý nghĩa và 1 số ít đặc thù thẩm mỹ và nghệ thuật ( xích míc kịch, ngôn từ, hành vi nhân vật … ) của trích đoạn Nổi oan hại chồng. Nắm được cách dùng dấu chấm lửng, dâu chấm phẩy. Nắm được đặc thù của văn bản để nghị : mục tiêu, nhu yếu, nội dung và cách làm loại văn bản này. VẢN BẢNQUAN ÂM THI KÍNHTóm tắt nội dungVở chèo ( * ) hoàn toàn có thể chia làm ba phần : 1. Án giết chồngThiện Sĩ, con Sùng ông, Sùng bà, kết hôn cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ bên cạnh. Thấy chồng có sợi râu mọc ngược, Thị Kính cầm dao khâu toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình, bất giác hô hoán lên. Cha mẹ chồng đổ riệt cho Thị Kính có ý giết Thiện Sĩ, đuổi Thị Kính về nhà bố đẻ. 111Q uan Âm Thị Kính – tượng ở chùa Tây Phương2. Án hoang thaiBị oan ức nhưng không biết kêu vào đâu, Thị Kính giả trai, vào tu ở chùa Vân Tự, lấy pháp hiệu là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông, vốn tính lẳng lơ, mê hồn Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Mầu về nhà đùa ghẹo, ăn nằm với anh Nô là người ở, rồi có thai. Làng bắt vạ. Bí thế, Thị Mầu khai cho Kính Tâm. Kính Tâm chịu oan, bị đuổi ra tam quan ( cổng chùa ). Thị Mầu đem con bỏ cho Kính Tâm. 112 3. Oan tình được giải – Thị Kính lên tòa senTrải ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng “ hóa ”, được lên tòa sen, trở thành Phật Bà Quan Âm. Trước khi “ hóa ”, Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới rõ Kính Tâm là gái và hiểu rõ tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng. Trích đoạnNÖI OAN HAI CHÔNGThiện Sĩ : ( nói sử ) Nàng ơi, đã bao lâu soi kinh bóng quế ( ” Ta dùi mài đợi hội long vân ( * ) Đêm nay nghe mỏi mệt tinh thần Mượn kỉ ( ” này ta nghỉ sống lưng một lát. ( Thị Kính dọn kĩ rồi ngồi quạt cho chồng. Thiện sĩ thiu thỉu ngủ. Một lát, Thị Kính chú ý nhìn dưới cằm chồng, do dự. ) Thị Kính : ( nói sử ) Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc, Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta. Râu làm thế nào một chiếc trồi ra ? Dị hình sắc dưới cằm mọc ngược Khi chàng thức giấc biết làm thế nào được, Nay đang cơn giấc ngủ mơ màng, Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an Âu dao bén, thiếp xén tày một mực. ( Thị Kính cầm dao khâu xén chiếc râu. Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, tá hỏa nắm lấy dao kêu lên. ) Thiện Sĩ : Hỡi cha ! Hỡi mẹ ! Hỡi xóm ! Hỡi làng ! Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm thế nào thấy sự không bình thường. ( Sùng ông, Sùng bà cùng tá hỏa chạy ra. ) Sùng bài : Làm sao đấy hở ? Làm sao ? Sùng ông : Bất thường làm thế nào ? Việc gì đêm hôm không để xóm giềng ngủ. Vợ chồng lại rầm rĩ lên như thế ? 8 NGU VẢN 7/2, A 113T hiện Sĩ : ( nói đếm ) Thưa cha mẹ, đêm qua con ngồi học đã khuya Vừa chợp mắt thấy dao kia kề cổ. Con nói đây, có quỷ thần hai vai chứng tỏ Dầu thực hư đôi lẽ con chưa tường. Sùng ông : Hú vía ! Kề cổ mày hay kề cổ ai hở con ? Sùng bà : ( gắt Sùng ông ) Thôi đi, lại còn kề cổai vào đây nữa ? Cái con mặt sứa gan lim này ! Mày định giết con bà à ? ( Dúi đầu Thị Kính ngã xuống ) Úi chao ! Tôi đã bảo ông mà ! Lấy vợ cho con thì phải kén họ. Tôi đã bảo là phải kén những nơi công hầu “ ) kia mà ! ( Múa hát sắp chợt ) Giống phượng giống công ”, Giống nhà bà đây giống phượng giống công. Còn tuồng bay mèo mả gà đồng ” ) lẳng lơ. Chứ giờ đây bay mới lộ cái mặt ra, Chứ giờ đây sao chẳng mở cái mồm ra ? Thị Kính : ( khóc ) Lạy cha, lạy mẹ ! Cho con xin trình cha mẹ. Sùng bà : Thôi câm đi ! Lại còn dám mở mồm nữa à ? ( Tiến lại phía Thiện Sĩ ) Úi chao ! Hú hồn hú vía cho con tôi ! Giải kiếp ! Giải kiếp ! ( Quay lại Thị Kính ) ( Nói lệch ) Cả gan ! Cả gan ! Cái con này thật cả gan ! May cho con tao sực tỉnh giấc vàng, Tỉnh tình tinh nữa còn gì mà không chết ? Này con kia ! Mày có trót say hoa đắm nguyệt Đã trên dâu dưới Bộc { ” hẹn hò … Thị Kính : ( vật vã khóc ) Giời ơi ! Mẹ ơi, oan cho con lắm mẹ ơi ! 114 8 NGỨWAN 7/2. 8S ùng bà : ( nói tiếp ) Mày cứ thú với bà, bà cũng thứ đi cho. Can chi phải dụng tình nguy hiểm ”. Mày ngửa mặt lên cho bà xem nào ! Sùng ông : Thì mày ngửa lên cho bà ấy xem ! ( Thị Kính ngửa mặt rũ rượi ) Sùng bà : ( nói lệch ) Ôi chao ơi là mặt ! Chém bổ băm vằm xả xích mặt ! Gái say trai lập chí giết chồng ? Thị Kính : Oan cho con lắm mẹ ơi ! Chàng học khuya mỏi mệt. Con thấy râu mọc ngược dưới cằm. Sùng bài : Lại còn oan à ? Rõ rành rành mười mắt đều trông. Phi mặt gái trơ như mặt thớt ! Sùng ông : Thì ra con Thị Kính này nó là gái giết chồng thậthở bà ? Sùng bà : Úi giời ơi ! Chồng với con ! Ông chửa mở mắt được ra mà trông kiakìa ( trở con dao dưới đất ). Lúc nào cũng rượu, khi nào cũng say. Ản nói thì lèm bèm lêm bèm. … Này con kia ! Tam tòng tứ đức ” nhà mày để ở đâu hử ? ( nói lệch ) Sao mày không sợ gươm trời búa nguyệt ”, Cả gan thay cho bụng đàn bà, Con Ngữa bất kham thôi phó về Bồng Báo ( “ ). Này, bà bảo cho mà hay này : đồng nát thì về Cầu Nôm ( * * ) Con gái nỏ mồm thì về ở với cha, biết không ? ( hát sắp ) Lại nở ra rồngTrứng rồng lại nở ra rồng ” ” Liu điu lại nở ra dòng liu điu ( * ). ( nói lệch ). Này ! Nhà bà đây cao môn lệnh tộc { * * ). Mày là con nhà cua ốc115Cho nên chữ tam tòng mày ăn ở đơn sai Chả công đâu bà đánh mắng cho hoài Gọi Mãng tộc, phó về cho rảnh thôi ông ạ ! C } hay ! … Thế ông vẫn ngồi chết ở đấy à ? Sùng ông : Sao bà bảo tôi ngồi chết gí xuống đây thì tôi đừng ngồi à ? Sùng bà : Không biết gọi Mãng tộc sang đây mà giao trả con Thị Kính kia đi. Để như vậy con mình có ngày chết oan vì nó đấy. Thôi ông đi đi ! Sùng ông : Ủ thì đi ! Thị Kính : ( với Thiện Sĩ ). Oan thiếp lắm chàng ơi ! Sùng bà : Thôi con vào rửa mặt mà đọc sách. Rồi đây mẹ lấy cho dăm vợ, tiếc gì cái đồ sát chồng kia nữa ! Thị Kính : Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi ! Sùng bà : Hãy còn oan à ? ( với Thiện Sĩ ) Đi ! Đi vào ! ( Thị Kính chạy theo. van xin, Sùng bà dúi tay ngã khuỵu xuống thì có tiếng Sùng ông nói từ ngoài cổng. ) Sùng ông : Ông Mãng ơi, ông sang mà ăn cữ cháu ! Mãng ông : Đấy, tôi biết ngay mà ! Mạ già ruộng ngấu, không cắm cây mạ thì thôi, chứ cắm là mọc ngay cây lúa cho mà xem. Sùng ông : Ông khoe con ông nữ tắc nữ công ” nhỉ ? Mãng ông : Vâng thì cháu đủ nữ tắc nữ công đấy chứ ! Sùng ông : Đây này ! ( cầm con dao giơ vào mặt Mãng ông ) Đang nửa đêm nó cầm dao giết chồng đây này ! Mãng ông : Úi chao ! Thật thế hở ông ? Sùng ông : Ông chưa mở mắt ra mà trông đấy. à ? ( chỉ Thị Kính ) Đấy, con ông đấy, ông đem về mà dạy bảo. Từ giờ trở đi, ông hãy bớt cái mồm mà khoe khoang, nữ tắc với chả nữ công. Về đi ! Mãng ông : Ông ơi ! Ông cho tôi biết đầu đuôi câu truyện với, ông ơi ! Sùng ông : Biết này ! ( Sùng ông dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào. Thị Kính chạy vội lại đỡ cha. Hai cha Con ôm nhau thút thít. ) 116M ãng ông : Con ơi ! Con ăn ở ra sao mà nên nông nỗi này hở con ? Thị Kính : Cha ơi ! Oan cho con lắm cha ơi ! Mãng ông : Oan cho con lắm à ? ( sửrầu rồi vãn ) Con ơi ! Dù oan dù nhẫn chẳng oan Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào ! Thôi sự tình về nhà nói cho cha mẹ biết. Dù oan, ngay, giờ biết kêu ai. Thôi đứng dậy về cùng cha, rồi cha liệu cho con. ( Thị Kính dẫn cha đi một quãng, Mãng ông quay lại ). Về cùng cha, con ơi ! ( Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại và than vãn, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm lấy chiếc áo đang khâu dở, bóp chặt trong tay ) Thị Kính : ( hát sử rầu ) Thương ôi ! Bấy lâu sắt cầm tịnh hảo ” ” Bỗng ai làm chăn gối một mình. Nghĩ trách mình phận hẩm duyên ôi Cho nên nỗi thế tình run rủi ! ( nói thảm ) Về cùng cha ! Có trở về như vậy Cũng không sao tránh khỏi tiếng mỉa mai. Không, không, phải sống ở đời mới mong tỏ rõ người đoan chính. ( sửrầu tiếp ) Con vọng bái nghiêm từ ( * ) tôn kính, Con tìm nơi khuất mặt cho xong. Trách lòng ai nỡ phụ lòng Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đôi Nhật nguyệt rạng soi Thấu tình chăng nhẽ Trước con lạy cha, sau con lạy mẹ Thay áo quần giả dạng đàn ông ( hát ba than ) Áo chít cài khuy Nay tôi quyết tâm trá hình nam tử bước đi tu hành. Cầu Phật tổ chứng tỏ. 117 ( Thị Kính lặng lẽ bước ra khỏi nhà họ Sùng, hướng về phía chân trời chớm rạng đồng thì màn từ từ khép lại ) ( Theo Đỗ Bình Trị – Hoàng Hữu Yên, trong Văn tuyển văn học Nước Ta, NXB Giáo dục đào tạo, TP. Hà Nội, 1983 ) Chú thích ( * ) Chèo : loại kịch hát, múa dân gian, ké chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn được gọi là chèo sân đình. Chèo phát sinh và được thông dụng thoáng rộng ở Bắc Bộ. Tích truyện trong chèo được khai thác từ truyện cổ tích và truyện Nôm ( Quan Âm Thị Kính, Từ Thức gặp tiên, Trương Viên, Kim Nham, Tống Trân – Cúc Hoa, … ) xoay quanh trục bĩ cực ( đau khổ, oan trái ) – thái lai ( tốt đẹp, yên vui ). Chèo quan tâm ra mắt những mẫu mực về đạo đức, kĩ năng để mọi người noi theo. Bên cạnh việc cảm thông với số phận thảm kịch của người lao động, người phụ nữ, tôn vinh phẩm chất và kĩ năng của họ, chèo còn châm biếm, đả kích trực tiếp và can đảm và mạnh mẽ những điều bất công, xấu xa trong xã hội phong kiến đương thời. Chèo có một số ít loại nhân vật truyền thống cuội nguồn với những đặc trưng tính cách riêng như : thư sinh thì nho nhã, điềm đạm ; nữ chính : đức hạnh, nết na ; nữ lệch : lẳng lơ, mạnh dạn ; mụ ác : hung tàn, độc địa. Hề chèo là những vai hài mang đến tiếng cười mưu trí, hả hê và thâm thúy cho người xem. Nhân vật chèo khi bước ra sân khấu, tiên phong phải tự xưng danh ( xưng tên, họ, quê quán, nghề nghiệp, tính cách ), sau đó mới bước vào diễn tích. TÍnh chất ước lệ và cách điệu của sân khấu chèo bộc lộ rất cao qua thẩm mỹ và nghệ thuật hóa trang, nghệ thuật và thẩm mỹ hát, múa của những nhân vật. Chẳng hạn, nhân vật lão thì mặc áo điều, quần lụa bạch, hoạt động trên sân khấu theo đường gãy khúc và đường tròn, điệu đi giật cục, chân lảo đảo, thường hát điệu bình tiểu. Nhân vật nữ chính mặc áo hồng lồng xa đen, hoạt động trên sân khấu theo góc vuông, đường thẳng, tư thế ngay thật, để quạt che kín đáo, thường hát điệu sử bằng. Còn nhân vật nữ lệch : dán cao ở thái dương, hoạt động theo đường lượn sóng khuếch đại quá mức, hòn đảo mắt nhiều, dáng đi ưỡn ẹo, nhiều hoạt động bất ngờ đột ngột, thường hát điệu cấm giá, sắp chợt. 118 ( 1 ) Soi kinh bóng quế : ý nói chăm đọc sách để thi đỗ. ( 2 ) Hội long vân : ý nói thi tuyển đỗ đạt ( long : rồng, vân : mây, hội : gặp ; rồng mây gặp nhau ). ( 3 ) Kỉ ( tràng kỉ ) : ở đây là ghế kiểu cổ, thường có chạm khắc hình để trang trí. ( 4 ) Công hầu : tước công và tước hầu, công hầu là chỉ chung những chức tước cao trong triều đình phong kiến. ( 5 ) Phượng ( chim phượng hoàng ) : chim tưởng tượng ra, có hình thù như chim trĩ và được xem là chúa của loài chim ; công : chim quý và hiếm, bộ lông màu lụcánh thép ; đuôi con trống dài, có nhiều màu sắc đẹp, hoàn toàn có thể xòe thẳng đứng và xếp theo hình nan quạt. Giống phượng giống công : chỉ dòng giống phong phú, сао quў. ( 6 ) Mèo mả gà đồng : mèo ở mả, gà ở đồng, chỉ loài vật hoang hóa, không phải là những giống vật nuôi trong nhà, thành ngữ này dùng để chỉ những kẻ vô lại, thiếu giáo dục, ma mãnh, bịp bợm. ( 7 ) Trên dâu dưới Bộc ( hoặc “ dưới Bộc trên dâu ” ) : chỉ những cuộc tình bất chính ( những ruộng dâu ở bãi sông Bộc thuộc tỉnh Sơn Đông-Trung Quốc là chỗ rất lâu rồi trai gái nước Trịnh và nước Vệ thường hẹn hò nhau tình tự ). ( 8 ) Bất trắc : việc xấu xảy ra khó lường trước được. Ó đây chỉ đặc thù gián trá, phản phúc. ( 9 ) Tam tòng tứ đức ( tam : ba ; tứ : bốn ) : thời phong kiến ý niệm phụ nữ phải tam tòng ( “ tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử ”, tức là ở nhà phải theo ( nhờ vào ) cha, lấy chồng phải theo chồng, chồng chết thì theo con trai ) và có tứđức ( “ công, dung, ngôn, hạnh ”, tức những tiêu chuẩn cần có về việc làm, dung nhan, lời ăn lời nói và đức hạnh ). ( 10 ), Gươm trời búa nguyệt : chỉ sự trừng trị của ông trời ( theo ý niệm mê tín dị đoan ). ( 11 ) Bồng Báo : tức thôn Bồng Thượng thuộc huyện Vĩnh Lộc ( Thanh Hóa ), một vùng đất văn vật thời xưa, ngựa bất kham thường được đưa về đây để thuần hóa. ( 12 ). Cầu Nôm : thuộc huyện Văn Lâm ( Hưng Yên ) ngày này, có nghề đúc đồng. ( 13 ). Trứng rồng lại nở ra rồng : chỉ dòng dõi cao quý, phong phú, tiếp nối nhau. 119 ( 14 ). Liu điu : rắn nhỏ có nọc độc, sống ở ao hồ, ăn ếch nhái, ở đây chỉ dòng giống hèn mọn, thấp kém, ( 15 ) Cao môn lệnh tộc : chỉ nơi phong phú, quyền thế. ( 16 ). Nữ tắc nữ công : ( giỏi giang, gương mẫu về ) việc làm và đạo đức, theo ý niệm xưa so với người phụ nữ. ( 17 ). Sắt cầm tịnh hảo : ý nói tình vợ chồng hòa hợp ( sắt, cầm là hai thứ đàn cổ ). ( 18 ). Nghiêm từ : cha mẹ, nói một cách rất đầy đủ là nghiêm phụ, từ mẫu ( ý niệm chung rất lâu rồi cho rằng người cha cần nghiêm khắc, người mẹ cần thánh thiện ). ĐọC-HIÊU VẢN BẢN1. Đọc kĩ tóm tắt nội dung vở chèo Quan Âm Thị Kính. 2. Đọc kĩ trích đoạn Nỗi oan hại chồng và những chú thích để hiểu văn bản và những từ ngữ khó. 3. Trích đoạn Nỗi oan hại chồng có mấy nhân vật ? Những nhân vật nào là nhân vật chính bộc lộ xung đột kịch ? Những nhân vật đó thuộc những loại vai nào trong chèo và đại diện thay mặt cho ai ? 4. Khung cảnh ở phần đầu trích đoạn là khung cảnh gì ? Qua lời nói và cử chỉ của Thị Kính ở đây, em có nhận xét gì về nhân vật này ? 5. Thảo luận ở lớp : Hãy liệt kê và nêu nhận xét của em về hành vi và ngôn từ của Sùng bà so với Thị Kính. 6. Trong trích đoạn, mấy lần Thị Kính kêu oan ? Kêu với ai ? Khi nào lời kêu oan của Thị Kính mới nhận được sự cảm thông ? Em có nhận xét gì về sự cảm thông đó ? 7. Thảo luận ở lớp : Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà, Sùng bà và Sùng ông còn làm điều gì gian ác ? Theo em, xung đột kịch trong trích đoạn này biểu lộ cao nhất ở chỗ nào ? Vì sao ? 8. Qua cử chỉ và ngôn từ nhân vật, hãy nghiên cứu và phân tích tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà. Việc Thị Kính quyết tâm “ trá hình nam tử bước đi tu hành ” có ý nghĩa gì ? Đó có phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ không ? 120V ở chèo Quan Âm Thị Kính nói chung và trích đoạn Nổi oan hại chồng nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu vượt trội của sân khấu chèo truyền thống lịch sử. Vở chèo và trích đoạn này thểhiện được những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, bế tắc của người phụ nữ và những trái chiều giai cấp trải qua xung đột mái ấm gia đình, hôn nhân gia đình trong xã hội phong kiến. LUYÊN TÂP 1. Tóm tắt ngắn gọn trích đoạn Nỗi oan hại chồng. 2. Thảo luận ở lớp : Nêu chủ đề của trích đoạn Nỗi oan hại chồng. Em hiểu thế nào về thành ngữ “ Oan Thị Kính ” ?

Alternate Text Gọi ngay