Vận dụng bản đồ tư duy vào một số tiết dạy kiểu bài nói, viết theo chủ điểm ở – Tài liệu text

08/10/2022 admin

Vận dụng bản đồ tư duy vào một số tiết dạy kiểu bài nói, viết theo chủ điểm ở phân môn tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 17 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY
VÀO MỘT SỐ TIẾT DẠY KIỂU
BÀI NÓI, VIẾT THEO CHỦ ĐIỂM
Ở PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
LỚP 3

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Môn Tiếng Việt ở lớp 3 thống nhất với mục tiêu chung của Chương
trình Tiếng Việt toàn cấp học là :
– Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt
(nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt
động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học môn Tiếng Việt, góp phần
rèn luyện các thao tác của tư duy.
– Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và
những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn
học của Việt Nam và của nước ngoài.
– Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tập làm văn là phân môn thực hành và rèn luyện tổng hợp bốn kỹ

năng nghe – nói – đọc viết, có tính chất tích hợp các phân môn khác trong
môn Tiếng Việt. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một
văn bản nói hoặc viết.
Ngôn ngữ là công cụ để phát triển tư duy. Chính vì vậy hướng dẫn
cho học sinh nói đúng, viết đúng, rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ là
hết sức cần thiết. Nhiệm vụ đó phụ thuộc phần lớn vào việc dạy – học Tiếng
Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.
Trong chương trình Tập làm văn lớp 3, kiểu bài Nói, viết theo chủ
điểm rèn luyện cho học sinh kĩ năng nói, viết, đồng thời cũng tạo điều kiện
cho các em củng cố những hiểu biết về phạm vi hiện thực được phản ánh
trong chủ điểm học tập.
Năm học 2011 – 2012 thực hiện giảm tải một số nội dung ở một số
môn học, bài học, trong đó có phân môn Tập làm văn lớp 3. Ở các tuần 11,
14, 16, không yêu cầu làm các bài tập nghe – kể (Bài tập1), giành thời gian
cho hoạt động nói theo chủ điểm (Bài tập2); tuần 31, không yêu cầu làm
bài tập 2, giành thời gian cho hoạt động nói về bảo vệ môi trường ở bài tập
1. Với thời lượng 40 phút cho một hoạt động nói theo chủ điểm, đó là điều
kiện thuận lợi để giúp học sinh rèn kĩ năng nói, nhiều học sinh được tham
gia trình bày trước lớp.

Bản đồ tư duy còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, … là hình
thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý
chính của một nội dung, hệ thống hoá một chủ đề… bằng cách kết hợp việc
sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. Đặc điểm tâm sinh lí học
sinh Tiểu học thường dễ thuộc nhưng chóng quên, các em thường ghi nhớ
nhanh nhờ vào quan sát hình ảnh sống động, nhiều màu sắc. Để giúp các
em tiếp cận được với tri thức của nhân loại đòi hỏi người giáo viên phải đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động học tập của
học sinh. Thay đổi từ việc dạy cho học sinh kiến thức là chính chuyển sang

dạy cho học sinh cách học là chính. Làm thế nào để học sinh nói, viết được
đoạn văn theo chủ điểm đúng yêu cầu đặt ra, đạt được mục tiêu của môn
học? Để đạt được hiệu quả dạy học, qua tìm hiểu tài liệu, theo dõi trên các
trang web dạy học, tôi mạnh dạn vận dụng bản đồ tư duy vào một số tiết
dạy kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm ở phân môn Tập làm văn lớp 3.

B. NỘI DUNG
Trong quá trình dạy một tiết Tập làm văn, để đạt mục tiêu đề ra bên
cạnh việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên, học sinh cần phải có
vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Học tốt Tập làm văn sẽ giúp
học sinh học tốt các môn học khác đồng thời giáo dục các em những tình
cảm lành mạnh, trong sáng; rèn luyện khả năng giao tiếp và góp phần đắc
lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của Tiếng việt, hình thành
nhân cách con người Việt Nam.
I. THỰC TRẠNG:
1. Thuận lợi:
Với kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm, để tạo điều kiện thuận lợi cho
học sinh, SGK thường đưa ra những đề tài gần gũi với các em và những đề
tài ấy thường cũng là đề tài mở.
Giáo viên luôn không ngừng học hỏi, đổi mới phương pháp dạy học,
lựa chọn và tổ chức những hình thức luyện tập phù hợp mục tiêu dạy và
học để dẫn dắt rèn luyện học sinh thực hành những bài văn nói – viết một
cách độc lập, sáng tạo.

Để giúp học sinh viết được những bài văn hay, ý tưởng phong phú,
sáng tạo giáo viên luôn chú trọng rèn kĩ năng nói cho học sinh vì học sinh
nói tốt sẽ trình bày bài viết tốt.
Học sinh đã nắm vững kiến thức, kĩ năng từ các lớp dưới. Đây là cơ
sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn lớp ba.

2. Khó khăn:
Tập làm văn là phân môn khó so với các phân môn khác của môn
Tiếng Việt, vì vậy việc dạy – học ở phân môn này có những hạn chế nhất
định.
Trong việc rèn kĩ năng nói-viết cho học sinh, giáo viên có đầu tư
nghiên cứu mục tiêu các tiết dạy để lựa chọn các phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp từng đối tượng học sinh, nhưng sự
đầu tư chưa sâu nên hiệu quả dạy học phân môn Tập làm văn chưa cao.
Dụng cụ trực quan thiếu, giáo viên chỉ nói suông nên học sinh không
hiểu, không nắm bắt được thông tin vì vậy bài làm không đạt hiệu quả cao.
Chất lượng giảng dạy ở phân môn Tập làm văn vẫn chưa đáp ứng
được sự mong mỏi của xã hội. Đối với học sinh lớp 3, để giúp các em nói,
viết được đoạn văn ngắn (5-7 câu) theo chủ điểm giáo viên thường gặp khó
khăn khi hướng dẫn các em nói, viết thành câu, thành đoạn. Bởi vốn từ của
các em chưa nhiều, kiến thực thực tế còn nhiều hạn chế. Một hạn chế nữa
đó là do đặc điểm vùng miền, khả năng ngôn ngữ của học sinh không được
lưu loát. Trong quá trình làm bài, nhiều em còn lúng túng khi dùng từ, diễn
đạt ngôn ngữ vụng, có em viết không đúng yêu cầu của đề bài, có những
bài làm đảm bảo về số câu nhưng không đủ ý.
3. Khảo sát phân môn Tập làm văn:
Thời điểm: Tháng 9/2011
Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 3A
Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu
36 2/36 = 5,6% 8/36 = 22,2% 21/36 = 58,3% 5/36 = 13,9%

Từ thực trạng trên, tôi đã tiến hành một số biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả giờ dạy kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm.

II. CÁC BIỆN PHÁP CHỦ YẾU
1. Hướng dẫn chuẩn bị:
Để có một tiết học hiệu quả, khâu chuẩn bị rất cần thiết với cả thầy
và trò. Với kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm, học sinh phải được hướng dẫn
chuẩn bị ngay từ khi bắt đầu học mỗi chủ điểm. Học sinh cần phải tích luỹ
vốn từ, đặt câu qua các tiết học Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả; sưu
tầm tranh ảnh và tìm hiểu cách vẽ bản đồ tư duy theo chủ điểm.

2. Hướng dẫn tìm hiểu đề bài:
Giáo viên cần cho học sinh tự xác định rõ yêu cầu các bài tập. Giúp
học sinh tự xác định đúng yêu cầu bài tập để khi thực hành các em sẽ
không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề tài cần luyện tập.
3. Hướng dẫn tìm hiểu hệ thống câu hỏi gợi ý:
Hệ thống câu hỏi gợi ý tiết Tập làm văn kiểu bài Nói, viết theo chủ
điểm trong SGK sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập làm văn;
học sinh dựa vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn ngắn.
Giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ các câu gợi ý để hiểu rõ và nắm
vững nội dung từng câu hỏi; từ đó giúp các em trình bày đoạn văn rõ ràng,
mạch lạc đủ ý, dùng từ đúng, câu văn đúng ngữ pháp. Giúp học sinh nắm
vững nội dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chế được việc trình bày ý trùng
lặp, chồng chéo. Tạo được sự liên kết giữa các ý với nhau trong đoạn văn.
Giáo viên cần giúp các em hiểu nghĩa của các từ ngữ có trong câu
hỏi để học sinh hiểu và trình bày đúng yêu cầu, các từ ngữ này có thể là các
từ mới hoặc các từ khó hiểu đối với địa phương. VD: Nói về bảo vệ môi
trường, cần giúp học sinh hiểu môi trường gồm những gì? Để bảo vệ môi
trường em cần làm gì? Những việc làm đó có phù hợp, gần gũi với các em
không? Các em đã thực hiện hằng ngày như thế nào?
Trong các câu gợi ý, có một số câu hỏi gộp khiến học sinh lúng túng
khi diễn đạt ý, do đó ý không trọn vẹn, bài văn thiếu sinh động sáng tạo.
Giáo viên cần chia thành các câu gợi ý nhỏ để giúp các em có những ý

tưởng phong phú, hồn nhiên. Việc chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ sẽ có

nhiều học sinh được rèn kĩ năng nói, giúp các em thêm tự tin và giáo viên
dễ dàng sửa chữa sai sót cho học sinh. Ví dụ: Nói về quê hương, cần gợi ý
cho học sinh nêu cảnh đẹp ở quê hương em là gì? Cảnh đó có gì đẹp? Yêu
quê hương, em làm những gì để quê hương ngày càng thêm đẹp?
Như vậy qua hệ thống câu hỏi, giúp học sinh bày tỏ được thái độ,
tình cảm, ý kiến nhận xét đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học.
Song song với quá trình đó giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh
về câu trả lời của bạn để học sinh rút ra được những câu trả lời đúng, cách
ứng xử hay. Từ đó giúp học sinh mở rộng vốn từ, rèn kĩ năng diễn đạt
mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh, có cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài văn
của các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc đồng thời hình thành cho
các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống.
4. Hướng dẫn liên tưởng, tưởng tượng:
Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi nên đa số bài văn của học sinh lớp 3 có
ý tưởng chưa phong phú, sáng tạo, các em thường trình bày hạn hẹp trong
khuôn khổ nhất định. Nếu trong một bài Tập làm văn, học sinh chỉ biết diễn
đạt nội dung bằng những gì đã quan sát; hoặc thực hành một cách chính
xác theo các gợi ý; bài làm như thế tuy đủ ý nhưng không có sức hấp dẫn,
lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì vậy, với từng đề bài giáo viên nên có
những câu hỏi gợi ý, khuyến khích học sinh liên tưởng, tưởng tượng thêm
những chi tiết một cách tự nhiên, chân thật và hợp lí qua việc sử dụng các
biện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó học sinh biết trình bày bài văn giàu
hình ảnh, sinh động, sáng tạo. Trí tưởng tượng, liên tưởng ở học sinh lứa
tuổi này rất hồn nhiên ngây thơ và ngộ nghĩnh, cho nên để rèn luyện kĩ
năng này cho học sinh, giáo viên có thể chuẩn bị những câu, đoạn văn hay
cho học sinh tham khảo, học hỏi làm phong phú thêm vốn kiến thức cho
các em.

4. Hướng dẫn lập bản đồ tư duy:
Có thể hiểu bước lập bản đồ tư duy cũng chính là bước hướng dẫn
học sinh lập dàn ý để chuẩn bị cho phần nói theo chủ điểm.
Yêu cầu học sinh:
+ Nghĩ trước khi viết

+ Viết ngắn gọn
+ Viết có tổ chức
+ Viết theo ý của mình, có chừa khoảng trống để bổ sung
Giáo viên làm mẫu, hướng dẫn học sinh thao tác vẽ và đọc trên bản
đồ. Sau đó yêu cầu học sinh sử dụng vốn từ ngữ đã thu thập được qua quá
trình chuẩn bị để tự hoàn thành bản đồ tư duy của chính mình.
Từ bức ảnh trung tâm hoặc từ trung tâm, học sinh có thể chia thành
nhiều nhánh, mỗi nhánh là một ý chính. Từ nhánh chính học sinh vẽ thêm
các nhánh nhỏ với các từ ngữ để miêu tả cho ý chính đã nêu.
Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ
như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi học sinh vẽ một
kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau,
cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng Bản đồ
tư duy theo một cách riêng, do đó việc lập bản đồ tư duy phát huy được tối
đa khả năng sáng tạo của mỗi học sinh. Ví dụ:
Tuần 11: Nói về quê hương
Hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy (cá nhân)
– Giáo viên giới thiệu bản đồ tư duy GV đã chuẩn bị
– Hướng dẫn HS chọn từ trung tâm
– Hướng dẫn HS viết các từ ngữ chỉ cảnh vật ở các nhánh chính; tìm
các hình ảnh so sánh, gợi tả để điền vào các nhánh phụ,…; tiếp tục tìm các
từ ngữ nói lên tình cảm của mình…với nơi mình đang ở.

Tuần 31: Thảo luận về Bảo vệ môi trường
Hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy (nhóm)
– GT bản đồ tư duy GV đã chuẩn bị
– Hướng dẫn HS chọn từ trung tâm
– Hướng dẫn HS viết các từ ngữ về môi trường ở các nhánh chính;
tìm các biện pháp, việc làm bảo vệ môi trường vào các nhánh phụ…

5. Báo cáo, thuyết minh bản đồ tư duy:
Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu miệng các câu mà mình lập được.
Ban đầu có thể chưa theo một trình tự nhất định nhưng các em phải nói trọn
vẹn câu. Sau đó, mới yêu cầu học sinh tự sắp xếp các câu sao cho hợp lí
hơn.
Đồng thời, giáo viên yêu cầu các học sinh khác lắng nghe để chỉnh
sửa cách dùng từ, đặt câu cho các bạn. Giáo viên chỉ là cố vấn, trọng tài để
các em tự hoàn thiện được bản đồ tư duy, hình thành được đoạn văn.
6. Giao việc về nhà:
Từ bản đồ tư duy mà các em lập được ở lớp, giáo viên yêu cầu học
sinh viết thành đoạn văn theo chủ điểm chuẩn bị cho tiết Tập làm văn viết.

III. MỘT SỐ GIÁO ÁN MINH HOẠ

Tuần 11
Tiết Tập làm văn Tuần 11 giảm tải bài tập nghe – kể, giành toàn bộ
thời gian cho bài tập nói về quê hương. Với đối tượng học sinh trường tôi,
phần các em sinh ra và lớn lên trong khu vực thành phố nên giáo viên yêu
cầu học sinh nói về nơi mình đang ở.
Tập làm văn: Nói về quê hương
I. Mục tiêu: Rèn kĩ năng nói
Học sinh biết nói về quê hương (nơi mình đang ở) theo gợi ý trong
Sách giáo khoa. Bài nói đủ ý, dùng từ đặt câu đúng. Bước đầu biết dùng
một số từ ngữ gợi tả hoặc hình ảnh so sánh để bộc lộ tình cảm với quê
hương.
II. Chuẩn bị:
GV: Bản đồ tư duy vẽ trên giấy khổ lớn; Giấy A4 để phát cho HS
HS: Màu vẽ
III. Các hoạt động dạy – học chủ yếu:
Hoạt động 1 (5’): Khởi động
– Y/c Hs nêu các từ ngữ chỉ sự vật nơi em
ở; các từ ngữ chỉ tình cảm với cảnh vật nơi
em ở (đã học ở tiết Luyện từ và câu, sau đó
mở rộng thêm theo hiểu biết thực tế của
HS)
– GV ghi các từ ngữ HS nêu lên bảng nháp
– Gọi một số HS đọc lại
– HS nêu miệng

– 5 HS đọc thành tiếng, lớp
đọc thầm

Hoạt động 2 (10’): Hướng dẫn lập bản đồ tư duy
– Hướng dẫn HS tìm hiểu theo câu hỏi gợi ý:
+ Gia đình em đang sống ở đâu?
+ Cảnh vật ở đó có gì đẹp?

+ Em thích nhất cảnh vật gì?
– Lần lượt trả lời
+ Gia đình em đang sống
ở…
+ Những ngôi nhà rộng rãi
với khu vườn nhỏ trước sân/
Những ngôi nhà cao tầng rất
đẹp/…

+ Tình cảm của em với nơi em ở như thế
nào?
– GT bản đồ tư duy GV đã chuẩn bị

– Hướng dẫn HS chọn từ trung tâm

– Hướng dẫn HS viết các từ ngữ chỉ cảnh vật
ở các nhánh chính; tìm các hình ảnh so sánh,
gợi tả để điền vào các nhánh phụ,…; tiếp tục
tìm các từ ngữ nói lên tình cảm của mình…
+ Chiều về được chạy nhảy

trên hè phố sạch sẽ, thoáng
mát/…
+ Em thấy khu phố nơi em ở
thật gần gũi, thân thương/…
– Quan sát

– HS tự tìm từ phù hợp nơi
mình đang ở
– HS tự tìm từ để điền vào
bản đồ của mình
Hoạt động 3 (20’): Báo cáo, thuyết minh
– Gọi 1 HS giỏi dựa vào bản đồ tư duy để
nói mẫu cho cả lớp nghe
Y/c HS nhận xét theo tiêu chí:
+ Đúng nội dung chưa?
+ Có mấy câu?
+ Dùng từ, đặt câu đúng chưa?
+ Sắp xếp các câu đã hợp lý chưa?
– GV nhận xét, chỉnh sửa
– Y/c HS nói cho nhau nghe theo nhóm
– Gọi HS nói trước lớp
Y/c HS nghe và nhận xét
– GV nhận xét, chỉnh sửa, ghi điểm.
– 1 HS lên bảng trình bày
Lớp theo dõi, nhận xét theo
tiêu chí

– Lắng nghe
-Nói cho nhau nghe theo N2
– Một số học sinh nói trước
lớp
Nhận xét, bổ sung
Hoạt động 4(5’): Củng cố, dặn dò
– GV nhận xét và biểu dương những học sinh học tốt.
– Yêu cầu học sinh tiếp tục bổ sung, hoàn thành bản đồ tư duy rồi viết
thành đoạn văn nói về nơi em ở.

– Chuẩn bị bài:
+ Yêu cầu học sinh mở SGK, đọc gợi ý tiết Tập làm văn tuần 12.
+ Yêu cầu HS sưu tầm tranh, ảnh cảnh đẹp đất nước; Dựa vào câu
hỏi gợi ý lập bản đồ tư duy để nói về cảnh đẹp đất nước chuẩn bị cho
tiết Tập làm văn tuần 22.
Tuần 12
Tập làm văn: Nói, viết về cảnh đẹp đất nước
I. Mục tiêu:
– Rèn kĩ năng nói: Dựa vào một bức tranh (hoặc một tấm ảnh) về một
cảnh đẹp ở nước ta, học sinh nói được những điều đã biết về cảnh đẹp đó
(theo gợi ý). Lời kể đủ ý, có cảm xúc, thái độ mạnh dạn, tự nhiên.
– Rèn kĩ năng viết: Học sinh viết được những điều vừa nói thành
đoạn văn (5-7 câu). Dùng từ đặt câu đúng, bộc lộ được tình cảm với cảnh
vật trong tranh (ảnh).
II. Chuẩn bị:

GV: + Ảnh biển Phan Thiết, Hồ Gươm, Cửa Lò
+ Bảng phụ ghi câu hỏi gợi ý.
HS: Sơ đồ tư duy về một cảnh đẹp của đất nước mà em thích
III. Các hoạt động dạy học chủ yếu
Hoạt động 1 (1’): Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh
Hoạt động 2 (7’): Nói về cảnh biển Phan Thiết
– Treo bảng phụ, Y/c HS đọc
– Y/c HS quan sát ảnh và trả lời lần
lượt theo câu hỏi:
+ Ảnh chụp cảnh gì? ở nơi nào?
+ Màu sắc của cảnh vật trong ảnh
như thế nào?

+ Cảnh trong bức ảnh có gì đẹp?

+ Cảnh trong bức ảnh gợi cho em
suy nghĩ gì?
– 1 HS đọc thành tiếng, lớp đọc thầm

– Quat sát ảnh và trả lời câu hỏi

+ Cảnh biển ở Phan Thiết.
+ Trời trong xanh. Mặt biển xanh
màu ngọc bích. Núi xanh lam. Rặng
dừa ven bờ xanh rì. Bãi cát trắng
tinh…
+ Quang cảnh biển thật là đẹp vì có
núi và biển kề bên nhau…
+ Em rất thích/ Em rất tự hào vì đất

– Gọi HS nói lại toàn bộ theo gợi ý
GV theo dõi, cùng HS khác chỉnh
sửa cho HS nói về các dùng từ (nếu
cần)
– GV giới thiệu thêm ảnh Hồ Gươm,
Cửa Lò
nước mình có nhiều cảnh đẹp/ Em
muốn được đến ngắm cảnh biển.
– 1 HS nói theo gợi ý; các HS khác
lắng nghe, nhận xét và bổ sung (nếu
cần)
– theo dõi
Hoạt động 3 (15’): Nói về cảnh đẹp đất nước mà em biết
– Y/c HS nói tên cảnh đẹp mà em
biết (qua tranh ảnh đã sưu tầm)
– Y/c HS dùng sơ đồ tư duy đã
chuẩn bị để nói cho nhau nghe về
cảnh đẹp mà em biết.
– Tập nói trước lớp
+ Mời HS xung phong
GV cùng HS khác nhận xét về nội
dung, cách dùng từ, đặt câu.
+ Gọi 5 HS khác nói
GV biểu dương học sinh nói tốt,
chỉnh sửa cho những học sinh còn
mắc lỗi về dùng từ, đặt câu.
– HS lần lượt nêu tên

– HS dựa vào sơ đồ để nói

– 1 HS nói trước lớp qua ảnh
HS khác nhận xét, bổ sung (nếu cần)

– 5 HS nói trước lớp
Bình chọn bạn nói hay.
Hoạt động 4 (15’): Viết về cảnh đẹp đất nước
Bước 1: Giúp học sinh nắm yêu cầu
của bài tập
+ Gọi HS đọc Y/c
+ GV lưu ý HS: không nhất thiết
phải trả lời theo 4 câu hỏi gợi ý. Các
em có thể viết tự do, các câu văn
phải liền mạch. Chú ý dùng từ đặt
câu đúng; nhớ viết hoa các tên riêng.

Bước 2: HS viết bài
GV bao quát lớp
Bước 3: HS đọc bài viết (nếu còn
thời gian)
GV nhận xét, ghi điểm

+ 1 HS đọc thành tiếng, lớp đọc
thầm
+ Lắng nghe

– Viết bài vào vở

– Đọc bài viết

– Lắng nghe
Hoạt động 5(2’): Củng cố, dặn dò
– Khen học sinh biết dùng từ hay, đặt câu đúng, đủ ý; chữ viết sạch,
đẹp.
– Dặn học sinh chưa làm xong sẽ được hoàn thành tiếp vào giờ tự
học.
– Chuẩn bị bài tuần 13: Viết thư
+ Cho HS xem gợi ý (SGK Tiếng Việt Tập 1 trang 110)
Giới thiệu một số bản đồ tư duy học sinh tự thiết lập:

IV. KẾT LUẬN
1. Kết quả đạt được.
Được sự quan tâm, động viên của Ban Giám hiệu nhà trường, tôi
mạnh dạn vận dụng bản đồ tư duy vào một số tiết dạy giảm tải ở các tuần
11, 14, 16, 31 và một số tiết dạy khác. Trải qua quá trình vận dụng, vừa làm
vừa học, vừa rút kinh nghiệm đã đạt được một số kết quả sau:
+ Học sinh có thói quen làm việc, học tập một cách khoa học.
+ Phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh.
+ Đảm bảo tính linh hoạt, tự chủ, sáng tạo trong mỗi tiết học.
+ Đặc biệt, việc được tự tay “thiết kế” bản đồ tư duy làm cho học
sinh vô cùng thích thú học phân môn Tập làm văn, tình cảm thầy trò ngày
càng trở nên thân thiện hơn.
+ Kĩ năng nói của học sinh ngày càng được hoàn thiện hơn. Học sinh
biết tìm từ, ý; đặt câu đúng; biết vận dụng so sánh, nhân hoá; khả năng diễn
đạt ngôn ngữ tiến bộ rõ rệt, các em nói lưu loát, trôi chảy.
Kết quả khảo sát phân môn Tập làm văn
Thời điểm: Tháng 3/2012
Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 3A
Tổng số

Giỏi Khá Trung bình Yếu
36 10/36 = 27,8%

15/36 = 41,7%

11/36 = 30,5% 0
2. Bài học kinh nghiệm:
Từ những kết quả đã nêu trên, trong quá trình giảng dạy để việc vận

dụng bản đồ tư duy có hiệu quả, cũng như để nâng cao chất lượng học tập
của học sinh giáo viên cần phải thực hiện tốt những vấn đề sau:
+ Giáo viên phải có định hướng tốt các hoạt động, có hiểu biết thực
tế; chuẩn bị công phu, thực sự sáng tạo trong quá trình giảng dạy. Đảm bảo
tính tích hợp hợp lí giữa các phân môn Tập đọc – Chính tả – Luyện từ và
câu – Tập làm văn. Vận dụng các phương pháp, biện pháp tối ưu, linh hoạt
các hình thức tổ chức dạy học, tránh sự nhàm chán, buồn tẻ cho học sinh.

+ Các đường nét, hình ảnh, màu sắc trong bản đồ tư duy được sử
dụng với mức độ, hợp lý, không bị lạm dụng, không quá tải đối với học
sinh, không gây nhiễu loạn làm mất tập trung vào bài học.
+ Chú ý cách tổ chức hoạt động của học sinh để phát huy tính tích
cực hoạt động của các em trong quá trình học tập bằng việc sử dụng hệ
thống câu hỏi đa dạng, phù hợp mọi đối tượng học sinh. Giáo viên linh hoạt
trong việc tổ chức các phương pháp học tập nhóm, trao đổi thảo luận.
+ Giáo viên phải đặc biệt chú trọng rèn kĩ năng nói và viết (dùng từ,
đặt câu, tạo lập văn bản) trong giờ dạy phân môn Tập làm văn.
Trên đây là một vài suy nghĩ trong việc vận dụng bản đồ tư duy
nhằm đem lại niềm hứng thú cho học sinh trong học tập, góp phần rèn
luyện kĩ năng nói, viết trong phân môn Tập làm văn lớp 3.
Sáng kiến kinh nghiệm này chắc chắn không thể tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế nhất định. Rất mong sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp
và Hội đồng khoa học để vấn đề đưa ra được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

năng nghe – nói – đọc viết, có đặc thù tích hợp những phân môn khác trongmôn Tiếng Việt. Qua tiết Tập làm văn, học viên có năng lực kiến thiết xây dựng mộtvăn bản nói hoặc viết. Ngôn ngữ là công cụ để tăng trưởng tư duy. Chính vì thế hướng dẫncho học viên nói đúng, viết đúng, rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn từ làhết sức thiết yếu. Nhiệm vụ đó phụ thuộc vào hầu hết vào việc dạy – học TiếngViệt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Trong chương trình Tập làm văn lớp 3, kiểu bài Nói, viết theo chủđiểm rèn luyện cho học viên kĩ năng nói, viết, đồng thời cũng tạo điều kiệncho những em củng cố những hiểu biết về khoanh vùng phạm vi hiện thực được phản ánhtrong chủ điểm học tập. Năm học 2011 – 2012 triển khai giảm tải một số ít nội dung ở một sốmôn học, bài học kinh nghiệm, trong đó có phân môn Tập làm văn lớp 3. Ở những tuần 11,14, 16, không nhu yếu làm những bài tập nghe – kể ( Bài tập1 ), giành thời giancho hoạt động giải trí nói theo chủ điểm ( Bài tập2 ) ; tuần 31, không nhu yếu làmbài tập 2, giành thời hạn cho hoạt động giải trí nói về bảo vệ môi trường tự nhiên ở bài tập1. Với thời lượng 40 phút cho một hoạt động giải trí nói theo chủ điểm, đó là điềukiện thuận tiện để giúp học viên rèn kĩ năng nói, nhiều học viên được thamgia trình diễn trước lớp. Bản đồ tư duy còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, … là hìnhthức ghi chép nhằm mục đích tìm tòi đào sâu, lan rộng ra một sáng tạo độc đáo, tóm tắt những ýchính của một nội dung, hệ thống hoá một chủ đề … bằng cách tích hợp việcsử dụng hình ảnh, đường nét, sắc tố, chữ viết. Đặc điểm tâm sinh lí họcsinh Tiểu học thường dễ thuộc nhưng chóng quên, những em thường ghi nhớnhanh nhờ vào quan sát hình ảnh sôi động, nhiều sắc tố. Để giúp cácem tiếp cận được với tri thức của trái đất yên cầu người giáo viên phải đổimới chiêu thức dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động giải trí học tập củahọc sinh. Thay đổi từ việc dạy cho học viên kiến thức và kỹ năng là chính chuyển sangdạy cho học viên cách học là chính. Làm thế nào để học viên nói, viết đượcđoạn văn theo chủ điểm đúng nhu yếu đặt ra, đạt được tiềm năng của mônhọc ? Để đạt được hiệu suất cao dạy học, qua khám phá tài liệu, theo dõi trên cáctrang web dạy học, tôi mạnh dạn vận dụng map tư duy vào 1 số ít tiếtdạy kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm ở phân môn Tập làm văn lớp 3. B. NỘI DUNGTrong quy trình dạy một tiết Tập làm văn, để đạt tiềm năng đề ra bêncạnh việc thay đổi giải pháp dạy học của giáo viên, học viên cần phải cóvốn kiến thức và kỹ năng ngôn từ về đời sống thực tiễn. Học tốt Tập làm văn sẽ giúphọc sinh học tốt những môn học khác đồng thời giáo dục những em những tìnhcảm lành mạnh, trong sáng ; rèn luyện năng lực tiếp xúc và góp thêm phần đắclực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong sáng của Tiếng việt, hình thànhnhân cách con người Nước Ta. I. THỰC TRẠNG : 1. Thuận lợi : Với kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm, để tạo điều kiện kèm theo thuận tiện chohọc sinh, SGK thường đưa ra những đề tài thân thiện với những em và những đềtài ấy thường cũng là đề tài mở. Giáo viên luôn không ngừng học hỏi, thay đổi chiêu thức dạy học, lựa chọn và tổ chức triển khai những hình thức rèn luyện tương thích tiềm năng dạy vàhọc để dẫn dắt rèn luyện học viên thực hành thực tế những bài văn nói – viết mộtcách độc lập, phát minh sáng tạo. Để giúp học viên viết được những bài văn hay, sáng tạo độc đáo đa dạng và phong phú, phát minh sáng tạo giáo viên luôn chú trọng rèn kĩ năng nói cho học viên vì học sinhnói tốt sẽ trình diễn bài viết tốt. Học sinh đã nắm vững kiến thức và kỹ năng, kĩ năng từ những lớp dưới. Đây là cơsở giúp những em học tốt phân môn Tập làm văn lớp ba. 2. Khó khăn : Tập làm văn là phân môn khó so với những phân môn khác của mônTiếng Việt, vì thế việc dạy – học ở phân môn này có những hạn chế nhấtđịnh. Trong việc rèn kĩ năng nói-viết cho học viên, giáo viên có đầu tưnghiên cứu tiềm năng những tiết dạy để lựa chọn những chiêu thức và hìnhthức tổ chức triển khai dạy học sao cho tương thích từng đối tượng người tiêu dùng học viên, nhưng sựđầu tư chưa sâu nên hiệu suất cao dạy học phân môn Tập làm văn chưa cao. Dụng cụ trực quan thiếu, giáo viên chỉ nói suông nên học viên khônghiểu, không chớp lấy được thông tin vì thế bài làm không đạt hiệu suất cao cao. Chất lượng giảng dạy ở phân môn Tập làm văn vẫn chưa đáp ứngđược sự mong mỏi của xã hội. Đối với học viên lớp 3, để giúp những em nói, viết được đoạn văn ngắn ( 5-7 câu ) theo chủ điểm giáo viên thường gặp khókhăn khi hướng dẫn những em nói, viết thành câu, thành đoạn. Bởi vốn từ củacác em chưa nhiều, kiến thực thực tiễn còn nhiều hạn chế. Một hạn chế nữađó là do đặc thù vùng miền, năng lực ngôn từ của học viên không đượclưu loát. Trong quy trình làm bài, nhiều em còn lúng túng khi dùng từ, diễnđạt ngôn từ vụng, có em viết không đúng nhu yếu của đề bài, có nhữngbài làm bảo vệ về số câu nhưng không đủ ý. 3. Khảo sát phân môn Tập làm văn : Thời điểm : Tháng 9/2011 Đối tượng khảo sát : Học sinh lớp 3AT ổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu36 2/36 = 5,6 % 8/36 = 22,2 % 21/36 = 58,3 % 5/36 = 13,9 % Từ tình hình trên, tôi đã triển khai 1 số ít giải pháp nhằm mục đích nâng caohiệu quả giờ dạy kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm. II. CÁC BIỆN PHÁP CHỦ YẾU1. Hướng dẫn chuẩn bị sẵn sàng : Để có một tiết học hiệu quả, khâu chuẩn bị sẵn sàng rất thiết yếu với cả thầyvà trò. Với kiểu bài Nói, viết theo chủ điểm, học viên phải được hướng dẫnchuẩn bị ngay từ khi khởi đầu học mỗi chủ điểm. Học sinh cần phải tích luỹvốn từ, đặt câu qua những tiết học Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả ; sưutầm tranh vẽ và tìm hiểu và khám phá cách vẽ map tư duy theo chủ điểm. 2. Hướng dẫn khám phá đề bài : Giáo viên cần cho học viên tự xác lập rõ nhu yếu những bài tập. Giúphọc sinh tự xác lập đúng nhu yếu bài tập để khi thực hành thực tế những em sẽkhông chệch hướng, bảo vệ đúng nội dung đề tài cần rèn luyện. 3. Hướng dẫn tìm hiểu và khám phá mạng lưới hệ thống câu hỏi gợi ý : Hệ thống câu hỏi gợi ý tiết Tập làm văn kiểu bài Nói, viết theo chủđiểm trong SGK sắp xếp hợp lý như một dàn bài của một bài Tập làm văn ; học viên dựa vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành một đoạn văn ngắn. Giáo viên cần cho học viên đọc hàng loạt những câu gợi ý để hiểu rõ và nắmvững nội dung từng câu hỏi ; từ đó giúp những em trình diễn đoạn văn rõ ràng, mạch lạc đủ ý, dùng từ đúng, câu văn đúng ngữ pháp. Giúp học viên nắmvững nội dung từng câu hỏi gợi ý sẽ hạn chế được việc trình diễn ý trùnglặp, chồng chéo. Tạo được sự link giữa những ý với nhau trong đoạn văn. Giáo viên cần giúp những em hiểu nghĩa của những từ ngữ có trong câuhỏi để học viên hiểu và trình diễn đúng nhu yếu, những từ ngữ này hoàn toàn có thể là cáctừ mới hoặc những từ khó hiểu so với địa phương. VD : Nói về bảo vệ môitrường, cần giúp học viên hiểu thiên nhiên và môi trường gồm những gì ? Để bảo vệ môitrường em cần làm gì ? Những việc làm đó có tương thích, thân mật với những emkhông ? Các em đã triển khai hằng ngày như thế nào ? Trong những câu gợi ý, có một số ít câu hỏi gộp khiến học viên lúng túngkhi diễn đạt ý, do đó ý không toàn vẹn, bài văn thiếu sinh động phát minh sáng tạo. Giáo viên cần chia thành những câu gợi ý nhỏ để giúp những em có những ýtưởng nhiều mẫu mã, hồn nhiên. Việc chia thành nhiều câu gợi ý nhỏ sẽ cónhiều học viên được rèn kĩ năng nói, giúp những em thêm tự tin và giáo viêndễ dàng thay thế sửa chữa sai sót cho học viên. Ví dụ : Nói về quê nhà, cần gợi ýcho học viên nêu cảnh đẹp ở quê nhà em là gì ? Cảnh đó có gì đẹp ? Yêuquê hương, em làm những gì để quê nhà ngày càng thêm đẹp ? Như vậy qua mạng lưới hệ thống câu hỏi, giúp học viên bày tỏ được thái độ, tình cảm, quan điểm nhận xét nhìn nhận của mình về yếu tố nêu ra trong bài học kinh nghiệm. Song song với quy trình đó giáo viên cần hỏi quan điểm nhận xét của học sinhvề câu vấn đáp của bạn để học viên rút ra được những câu vấn đáp đúng, cáchứng xử hay. Từ đó giúp học viên lan rộng ra vốn từ, rèn kĩ năng diễn đạtmạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh, có cảm hứng. Trên cơ sở đó, bài văncủa những em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu xúc cảm đồng thời hình thành chocác em cách ứng xử linh động trong đời sống. 4. Hướng dẫn liên tưởng, tưởng tượng : Do đặc thù tâm lí lứa tuổi nên hầu hết bài văn của học viên lớp 3 cóý tưởng chưa phong phú và đa dạng, phát minh sáng tạo, những em thường trình diễn hạn hẹp trongkhuôn khổ nhất định. Nếu trong một bài Tập làm văn, học viên chỉ biết diễnđạt nội dung bằng những gì đã quan sát ; hoặc thực hành thực tế một cách chínhxác theo những gợi ý ; bài làm như vậy tuy đủ ý nhưng không có sức mê hoặc, hấp dẫn người đọc, người nghe. Vì vậy, với từng đề bài giáo viên nên cónhững câu hỏi gợi ý, khuyến khích học viên liên tưởng, tưởng tượng thêmnhững chi tiết cụ thể một cách tự nhiên, chân thực và phải chăng qua việc sử dụng cácbiện pháp so sánh, nhân hoá, để từ đó học viên biết trình diễn bài văn giàuhình ảnh, sinh động, phát minh sáng tạo. Trí tưởng tượng, liên tưởng ở học viên lứatuổi này rất hồn nhiên ngây thơ và ngộ nghĩnh, do đó để rèn luyện kĩnăng này cho học viên, giáo viên hoàn toàn có thể chuẩn bị sẵn sàng những câu, đoạn văn haycho học viên tìm hiểu thêm, học hỏi làm đa dạng và phong phú thêm vốn kiến thức và kỹ năng chocác em. 4. Hướng dẫn lập map tư duy : Có thể hiểu bước lập map tư duy cũng chính là bước hướng dẫnhọc sinh lập dàn ý để chuẩn bị sẵn sàng cho phần nói theo chủ điểm. Yêu cầu học viên : + Nghĩ trước khi viết + Viết ngắn gọn + Viết có tổ chức triển khai + Viết theo ý của mình, có chừa khoảng trống để bổ sungGiáo viên làm mẫu, hướng dẫn học viên thao tác vẽ và đọc trên bảnđồ. Sau đó nhu yếu học viên sử dụng vốn từ ngữ đã tích lũy được qua quátrình sẵn sàng chuẩn bị để tự hoàn thành xong map tư duy của chính mình. Từ bức ảnh TT hoặc từ TT, học viên hoàn toàn có thể chia thànhnhiều nhánh, mỗi nhánh là một ý chính. Từ nhánh chính học sinh vẽ thêmcác nhánh nhỏ với những từ ngữ để miêu tả cho ý chính đã nêu. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không nhu yếu tỉ lệ, cụ thể chặt chẽnhư map địa lí, hoàn toàn có thể vẽ thêm hoặc bớt những nhánh, mỗi học viên vẽ mộtkiểu khác nhau, dùng sắc tố, hình ảnh, những cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người hoàn toàn có thể “ bộc lộ ” nó dưới dạng Bản đồtư duy theo một cách riêng, do đó việc lập map tư duy phát huy được tốiđa năng lực phát minh sáng tạo của mỗi học viên. Ví dụ : Tuần 11 : Nói về quê hươngHướng dẫn học viên lập map tư duy ( cá thể ) – Giáo viên ra mắt map tư duy GV đã sẵn sàng chuẩn bị – Hướng dẫn HS chọn từ TT – Hướng dẫn HS viết những từ ngữ chỉ cảnh vật ở những nhánh chính ; tìmcác hình ảnh so sánh, gợi tả để điền vào những nhánh phụ, … ; liên tục tìm cáctừ ngữ nói lên tình cảm của mình … với nơi mình đang ở. Tuần 31 : Thảo luận về Bảo vệ môi trườngHướng dẫn học viên lập map tư duy ( nhóm ) – GT map tư duy GV đã chuẩn bị sẵn sàng – Hướng dẫn HS chọn từ TT – Hướng dẫn HS viết những từ ngữ về môi trường tự nhiên ở những nhánh chính ; tìm những giải pháp, việc làm bảo vệ thiên nhiên và môi trường vào những nhánh phụ … 5. Báo cáo, thuyết minh map tư duy : Giáo viên hướng dẫn học viên nêu miệng những câu mà mình lập được. Ban đầu hoàn toàn có thể chưa theo một trình tự nhất định nhưng những em phải nói trọnvẹn câu. Sau đó, mới nhu yếu học viên tự sắp xếp những câu sao cho hợp líhơn. Đồng thời, giáo viên nhu yếu những học viên khác lắng nghe để chỉnhsửa cách dùng từ, đặt câu cho những bạn. Giáo viên chỉ là cố vấn, trọng tài đểcác em tự triển khai xong được map tư duy, hình thành được đoạn văn. 6. Giao việc về nhà : Từ map tư duy mà những em lập được ở lớp, giáo viên nhu yếu họcsinh viết thành đoạn văn theo chủ điểm chuẩn bị sẵn sàng cho tiết Tập làm văn viết. III. MỘT SỐ GIÁO ÁN MINH HOẠTuần 11T iết Tập làm văn Tuần 11 giảm tải bài tập nghe – kể, giành toàn bộthời gian cho bài tập nói về quê nhà. Với đối tượng người dùng học viên trường tôi, phần những em sinh ra và lớn lên trong khu vực thành phố nên giáo viên yêucầu học viên nói về nơi mình đang ở. Tập làm văn : Nói về quê hươngI. Mục tiêu : Rèn kĩ năng nóiHọc sinh biết nói về quê nhà ( nơi mình đang ở ) theo gợi ý trongSách giáo khoa. Bài nói đủ ý, dùng từ đặt câu đúng. Bước đầu biết dùngmột số từ ngữ gợi tả hoặc hình ảnh so sánh để thể hiện tình cảm với quêhương. II. Chuẩn bị : GV : Bản đồ tư duy vẽ trên giấy khổ lớn ; Giấy A4 để phát cho HSHS : Màu vẽIII. Các hoạt động giải trí dạy – học đa phần : Hoạt động 1 ( 5 ’ ) : Khởi động – Y / c Hs nêu những từ ngữ chỉ sự vật nơi emở ; những từ ngữ chỉ tình cảm với cảnh vật nơiem ở ( đã học ở tiết Luyện từ và câu, sau đómở rộng thêm theo hiểu biết trong thực tiễn củaHS ) – GV ghi những từ ngữ HS nêu lên bảng nháp – Gọi 1 số ít HS đọc lại – HS nêu miệng – 5 HS đọc thành tiếng, lớpđọc thầmHoạt động 2 ( 10 ’ ) : Hướng dẫn lập map tư duy – Hướng dẫn HS khám phá theo câu hỏi gợi ý : + Gia đình em đang sống ở đâu ? + Cảnh vật ở đó có gì đẹp ? + Em thích nhất cảnh vật gì ? – Lần lượt vấn đáp + Gia đình em đang sốngở … + Những ngôi nhà rộng rãivới khu vườn nhỏ trước sân / Những ngôi nhà cao tầng liền kề rấtđẹp / … + Tình cảm của em với nơi em ở như thếnào ? – GT map tư duy GV đã sẵn sàng chuẩn bị – Hướng dẫn HS chọn từ TT – Hướng dẫn HS viết những từ ngữ chỉ cảnh vậtở những nhánh chính ; tìm những hình ảnh so sánh, gợi tả để điền vào những nhánh phụ, … ; tiếp tụctìm những từ ngữ nói lên tình cảm của mình … + Chiều về được chạy nhảytrên hè phố thật sạch, thoángmát / … + Em thấy thành phố nơi em ởthật thân mật, thân thương / … – Quan sát – HS tự tìm từ tương thích nơimình đang ở – HS tự tìm từ để điền vàobản đồ của mìnhHoạt động 3 ( 20 ’ ) : Báo cáo, thuyết minh – Gọi 1 HS giỏi dựa vào map tư duy đểnói mẫu cho cả lớp ngheY / c HS nhận xét theo tiêu chuẩn : + Đúng nội dung chưa ? + Có mấy câu ? + Dùng từ, đặt câu đúng chưa ? + Sắp xếp những câu đã hài hòa và hợp lý chưa ? – GV nhận xét, chỉnh sửa – Y / c HS nói cho nhau nghe theo nhóm – Gọi HS nói trước lớpY / c HS nghe và nhận xét – GV nhận xét, chỉnh sửa, kiếm được điểm. – 1 HS lên bảng trình bàyLớp theo dõi, nhận xét theotiêu chí – Lắng nghe-Nói cho nhau nghe theo N2 – Một số học viên nói trướclớpNhận xét, bổ sungHoạt động 4 ( 5 ’ ) : Củng cố, dặn dò – GV nhận xét và biểu dương những học sinh học tốt. – Yêu cầu học viên liên tục bổ trợ, hoàn thành xong map tư duy rồi viếtthành đoạn văn nói về nơi em ở. – Chuẩn bị bài : + Yêu cầu học viên mở SGK, đọc gợi ý tiết Tập làm văn tuần 12. + Yêu cầu HS sưu tầm tranh, ảnh cảnh đẹp quốc gia ; Dựa vào câuhỏi gợi ý lập map tư duy để nói về cảnh đẹp quốc gia sẵn sàng chuẩn bị chotiết Tập làm văn tuần 22. Tuần 12T ập làm văn : Nói, viết về cảnh đẹp đất nướcI. Mục tiêu : – Rèn kĩ năng nói : Dựa vào một bức tranh ( hoặc một tấm ảnh ) về mộtcảnh đẹp ở nước ta, học viên nói được những điều đã biết về cảnh đẹp đó ( theo gợi ý ). Lời kể đủ ý, có cảm hứng, thái độ mạnh dạn, tự nhiên. – Rèn kĩ năng viết : Học sinh viết được những điều vừa nói thànhđoạn văn ( 5-7 câu ). Dùng từ đặt câu đúng, thể hiện được tình cảm với cảnhvật trong tranh ( ảnh ). II. Chuẩn bị : GV : + Ảnh biển Phan Thiết, Hồ Hoàn Kiếm, Cửa Lò + Bảng phụ ghi câu hỏi gợi ý. HS : Sơ đồ tư duy về một cảnh đẹp của quốc gia mà em thíchIII. Các hoạt động giải trí dạy học chủ yếuHoạt động 1 ( 1 ’ ) : Kiểm tra sự chuẩn bị sẵn sàng của học sinhHoạt động 2 ( 7 ’ ) : Nói về cảnh biển Phan Thiết – Treo bảng phụ, Y / c HS đọc – Y / c HS quan sát ảnh và vấn đáp lầnlượt theo câu hỏi : + Ảnh chụp cảnh gì ? ở nơi nào ? + Màu sắc của cảnh vật trong ảnhnhư thế nào ? + Cảnh trong bức ảnh có gì đẹp ? + Cảnh trong bức ảnh gợi cho emsuy nghĩ gì ? – 1 HS đọc thành tiếng, lớp đọc thầm – Quat sát ảnh và vấn đáp câu hỏi + Cảnh biển ở Phan Thiết. + Trời trong xanh. Mặt biển xanhmàu ngọc bích. Núi xanh lam. Rặngdừa ven bờ xanh lè. Bãi cát trắngtinh … + Quang cảnh biển thật là đẹp vì cónúi và biển kề bên nhau … + Em rất thích / Em rất tự hào vì đất – Gọi HS nói lại hàng loạt theo gợi ýGV theo dõi, cùng HS khác chỉnhsửa cho HS nói về những dùng từ ( nếucần ) – GV ra mắt thêm ảnh Hồ Hoàn Kiếm, Cửa Lònước mình có nhiều cảnh đẹp / Emmuốn được đến ngắm cảnh biển. – 1 HS nói theo gợi ý ; những HS kháclắng nghe, nhận xét và bổ trợ ( nếucần ) – theo dõiHoạt động 3 ( 15 ’ ) : Nói về cảnh đẹp quốc gia mà em biết – Y / c HS nói tên cảnh đẹp mà embiết ( qua tranh vẽ đã sưu tầm ) – Y / c HS dùng sơ đồ tư duy đãchuẩn bị để nói cho nhau nghe vềcảnh đẹp mà em biết. – Tập nói trước lớp + Mời HS xung phongGV cùng HS khác nhận xét về nộidung, cách dùng từ, đặt câu. + Gọi 5 HS khác nóiGV biểu dương học viên nói tốt, chỉnh sửa cho những học viên cònmắc lỗi về dùng từ, đặt câu. – HS lần lượt nêu tên – HS dựa vào sơ đồ để nói – 1 HS nói trước lớp qua ảnhHS khác nhận xét, bổ trợ ( nếu cần ) – 5 HS nói trước lớpBình chọn bạn nói hay. Hoạt động 4 ( 15 ’ ) : Viết về cảnh đẹp đất nướcBước 1 : Giúp học viên nắm yêu cầucủa bài tập + Gọi HS đọc Y / c + GV chú ý quan tâm HS : không nhất thiếtphải vấn đáp theo 4 câu hỏi gợi ý. Cácem hoàn toàn có thể viết tự do, những câu vănphải liền mạch. Chú ý dùng từ đặtcâu đúng ; nhớ viết hoa những tên riêng. Bước 2 : HS viết bàiGV bao quát lớpBước 3 : HS đọc bài viết ( nếu cònthời gian ) GV nhận xét, kiếm được điểm + 1 HS đọc thành tiếng, lớp đọcthầm + Lắng nghe – Viết bài vào vở – Đọc bài viết – Lắng ngheHoạt động 5 ( 2 ’ ) : Củng cố, dặn dò – Khen học viên biết dùng từ hay, đặt câu đúng, đủ ý ; chữ viết sạch, đẹp. – Dặn học viên chưa làm xong sẽ được triển khai xong tiếp vào giờ tựhọc. – Chuẩn bị bài tuần 13 : Viết thư + Cho HS xem gợi ý ( SGK Tiếng Việt Tập 1 trang 110 ) Giới thiệu 1 số ít map tư duy học viên tự thiết lập : IV. KẾT LUẬN1. Kết quả đạt được. Được sự chăm sóc, động viên của Ban Giám hiệu nhà trường, tôimạnh dạn vận dụng map tư duy vào một số ít tiết dạy giảm tải ở những tuần11, 14, 16, 31 và một số ít tiết dạy khác. Trải qua quy trình vận dụng, vừa làmvừa học, vừa rút kinh nghiệm tay nghề đã đạt được một số ít tác dụng sau : + Học sinh có thói quen thao tác, học tập một cách khoa học. + Phát huy được tính tích cực, dữ thế chủ động của học viên. + Đảm bảo tính linh động, tự chủ, phát minh sáng tạo trong mỗi tiết học. + Đặc biệt, việc được tự tay “ phong cách thiết kế ” map tư duy làm cho họcsinh vô cùng thú vị học phân môn Tập làm văn, tình cảm thầy trò ngàycàng trở nên thân thiện hơn. + Kĩ năng nói của học viên ngày càng được triển khai xong hơn. Học sinhbiết tìm từ, ý ; đặt câu đúng ; biết vận dụng so sánh, nhân hoá ; năng lực diễnđạt ngôn từ văn minh rõ ràng, những em nói lưu loát, trôi chảy. Kết quả khảo sát phân môn Tập làm vănThời điểm : Tháng 3/2012 Đối tượng khảo sát : Học sinh lớp 3AT ổng sốGiỏi Khá Trung bình Yếu36 10/36 = 27,8 % 15/36 = 41,7 % 11/36 = 30,5 % 02. Bài học kinh nghiệm tay nghề : Từ những hiệu quả đã nêu trên, trong quy trình giảng dạy để việc vậndụng map tư duy có hiệu suất cao, cũng như để nâng cao chất lượng học tậpcủa học viên giáo viên cần phải thực thi tốt những yếu tố sau : + Giáo viên phải có xu thế tốt những hoạt động giải trí, có hiểu biết thựctế ; sẵn sàng chuẩn bị công phu, thực sự phát minh sáng tạo trong quy trình giảng dạy. Đảm bảotính tích hợp phải chăng giữa những phân môn Tập đọc – Chính tả – Luyện từ vàcâu – Tập làm văn. Vận dụng những chiêu thức, giải pháp tối ưu, linh hoạtcác hình thức tổ chức triển khai dạy học, tránh sự nhàm chán, buồn tẻ cho học viên. + Các đường nét, hình ảnh, sắc tố trong map tư duy được sửdụng với mức độ, hài hòa và hợp lý, không bị lạm dụng, không quá tải so với họcsinh, không gây nhiễu loạn làm mất tập trung chuyên sâu vào bài học kinh nghiệm. + Chú ý cách tổ chức triển khai hoạt động giải trí của học viên để phát huy tính tíchcực hoạt động giải trí của những em trong quy trình học tập bằng việc sử dụng hệthống câu hỏi phong phú, tương thích mọi đối tượng người dùng học viên. Giáo viên linh hoạttrong việc tổ chức triển khai những phương pháp học tập nhóm, trao đổi đàm đạo. + Giáo viên phải đặc biệt quan trọng chú trọng rèn kĩ năng nói và viết ( dùng từ, đặt câu, tạo lập văn bản ) trong giờ dạy phân môn Tập làm văn. Trên đây là một vài tâm lý trong việc vận dụng map tư duynhằm đem lại niềm hứng thú cho học viên trong học tập, góp thêm phần rènluyện kĩ năng nói, viết trong phân môn Tập làm văn lớp 3. Sáng kiến kinh nghiệm tay nghề này chắc như đinh không hề tránh khỏi nhữngthiếu sót, hạn chế nhất định. Rất mong sự góp phần quan điểm của đồng nghiệpvà Hội đồng khoa học để yếu tố đưa ra được triển khai xong hơn. Xin chân thành cảm ơn !

Liên kết:KQXSMB
Alternate Text Gọi ngay