Đồng bằng sông Hồng – Wikipedia tiếng Việt

23/08/2023 admin
Các tiểu vùng ở Bắc Bộ
Vị trí vùng Đồng bằng sông Hồng trên bản đồ Việt Nam
Đồng bằng sông Hồng ( hay Châu thổ Bắc Bộ ) là khu vực hạ lưu sông Hồng và sông Thái Bình thuộc Bắc Bộ Việt Nam. Đồng bằng sông Hồng bao gồm ten tỉnh thành, trong đó có one thành phố trực thuộc trung ương, nine tỉnh với sixteen thành phố thuộc tỉnh. Đây là vùng có mật độ dân số cao nhất Việt Nam ( 1.450 người/km², dân số là 21.848.913 người ). Gần như đồng nghĩa với đồng bằng sông Hồng là vùng trung châu, khác với vùng chân núi “ trung du ” và núi cao “ thượng du ”. Không giống như vùng Đồng bằng sông Cửu long, các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng chỉ có two tỉnh Thái Bình và Hưng Yên là không có núi, practice đó khu vực này thường được gọi là “ châu thổ sông Hồng ”. Danh từ Trung châu từng được dùng trong sử sách ngày xưa để chỉ định vùng bình nguyên này của miền Bắc. Công nghiệp đồng bằng hình thành sớm nhất Việt Nam và phát triển mạnh trong thời kì đất nước công nghiệp hóa và hiện đại hóa .

Các tiểu vùng ở Bắc Bộ
Vị trí vùng Đồng bằng sông Hồng trên bản đồ Việt Nam

Đồng bằng sông Hồng (hay Châu thổ Bắc Bộ) là khu vực hạ lưu sông Hồngsông Thái Bình thuộc Bắc Bộ Việt Nam. Đồng bằng sông Hồng bao gồm 10 tỉnh thành, trong đó có 1 thành phố trực thuộc trung ương, 9 tỉnh với 16 thành phố thuộc tỉnh. Đây là vùng có mật độ dân số cao nhất Việt Nam (1.450 người/km², dân số là 21.848.913 người).

Gần như đồng nghĩa với đồng bằng sông Hồng là vùng trung châu, khác với vùng chân núi “trung du” và núi cao “thượng du”. Không giống như vùng Đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng chỉ có 2 tỉnh Thái BìnhHưng Yên là không có núi, do đó khu vực này thường được gọi là “châu thổ sông Hồng”.

Danh từ Trung châu từng được dùng trong sử sách ngày xưa để chỉ định vùng bình nguyên này của miền Bắc. Công nghiệp đồng bằng hình thành sớm nhất Việt Nam và phát triển mạnh trong thời kì đất nước công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Vị trí, diện tích

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

Đồng bằng sông Hồng trải rộng từ vĩ độ 21°34´B (huyện Lập Thạch) tới vùng bãi bồi khoảng 19°5´B (huyện Kim Sơn), từ 105°17´Đ (huyện Ba Vì) đến 107°7´Đ (trên đảo Cát Bà). Toàn vùng có diện tích 21.259,6  km², tỷ lệ khoảng 4,5% tổng diện tích cả nước.

Phía bắc và đông bắc giáp Vùng Đông Bắc (Việt Nam), phía tây và tây bắc giáp vùng Tây Bắc, phía tây nam giáp vùng Bắc Trung Bộ, phía đông và đông nam là vịnh Bắc Bộ. Đồng bằng thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ các thềm phù sa cổ 10 – 15m xuống đến các bãi bồi 2 – 4m ở trung tâm rồi các bãi triều hàng ngày còn ngập nước triều.

Đặc điểm tên gọi

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

Các nhà nghiên cứu như Giáo sư Trần Quốc Vượng gọi vùng này là châu thổ Bắc bộ mà không gọi đồng bằng sông Hồng vì lý do:[1]

Toàn bộ miền đồng bằng sông Hồng nằm trên một lớp đá kết tinh cổ, loại nền đá ở vùng Đông Bắc. Cách đây 200 triệu năm, vào cuối đại Cổ sinh, lớp đá này bị sụt xuống. Vào thời đó, biển lên đến quá Việt Trì ngày nay, tiến sát các vùng đồi Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Nho Quan. Cửa sông Hồng lúc đó ở Việt Trì. Chế độ biển kéo dài trên 170 triệu năm. Các trầm tích Neogen lắng xuống làm cho vịnh biển thu hẹp lại. Lớp trầm tích này có nơi dày đến 3000 mét. Trên cùng là lớp phù sa Holocen dày từ 80 đến 100 mét ở trung tâm vùng đồng bằng sông Hồng, và càng xa trung tâm thì càng mỏng dần.

Trong đồng bằng sông Hồng có nhiều ô trũng tự nhiên, điển hình là ô trũng Hà Nam Ninh, ô trũng Hải Hưng và ô trũng Nho Quan. Ngoài ra còn có rất nhiều đầm lầy. Trầm tích và phù sa do các sông vận chuyển ra khỏi lòng sông mỗi mùa lũ đã không lấp được các ô trũng và đầm lầy này do chúng quá xa sông hoặc do bị đê điều nhân tạo ngăn cản. Việc các sông đổi dòng cũng tạo ra nhưng đầm lầy và ao hồ.

Dân số khu vực Đồng bằng sông Hồng hiện nay là 21.848.913 người (năm 2021) chiếm khoảng 22,3 % tổng dân số cả nước,[4] bình quân khoảng 1.450 người trên 1 km vuông. Đây là vùng có mật độ dân số cao nhất cả nước.Đa số dân số là người Kinh, một bộ phận nhỏ thuộc Ba Vì (Hà Nội) và Nho Quan (Ninh Bình) có thêm dân tộc Mường.

  • Dân cư đông nên có lợi thế: Có nguồn lao động dồi dào, nguồn lao động này có nhiều kinh nghiệm và truyền thống trong sản xuất, chất lượng lao động cao. Tạo ra thị trường có sức mua lớn.
  • Tuy nhiên lại gây sức ép lớn cho tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm, xuất hiện nhiều vấn đề về chỗ ở, việc làm, tỉ lệ phạm luật và tệ nạn xã hội cao.
  • Chính sách: có sự đầu tư nhiều của Nhà nước và nước ngoài.
  • Có lịch sử khai phá lâu đời, là nơi tập trung nhiều di tích, lễ hội, làng nghề truyền thống… với 2 trung tâm KT-XH là Hà NộiHải Phòng.

Vùng đồng bằng sông Hồng có vị trí chiến lược trong an ninh-quốc phòng. Hiện nay, vùng đồng bằng sông Hồng do Bộ tư lệnh Thủ đô Hà NộiQuân khu 2, Quân khu 1, Quân khu 3 bảo vệ.

Quân đoàn 1, còn gọi là Binh đoàn Quyết Thắng, được thành lập ngày 24 tháng 10, đóng tại thành phố Tam Điệp, Ninh Bình là một trong 4 binh đoàn chủ lực ở Việt Nam.

Tài nguyên thiên nhiên

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

  • Diện tích đất nông nghiệp khoảng 760.000 ha, trong đó 100% là đất phù sa màu mỡ, có giá trị lớn về sản xuất nông nghiệp. Đất nông nghiệp chiếm 51,2% diện tích vùng.
  • Khí hậu cận nhiệt đới ẩm, có mùa hè nóng ẩm nhưng mùa đông phi nhiệt đới lạnh và khô, làm cho cơ cấu cây trồng đa dạng. Tài nguyên khí hậu và thủy văn thuận lợi cho việc thâm canh tăng vụ trong sản xuất nông nghiệp. Thời tiết mùa đông rất phù hợp cho các cây trồng ưa lạnh
  • Tài nguyên nước phong phú, có giá trị lớn về kinh tế là hệ thống sông Hồngsông Thái Bình. Ngoài ra còn có nước ngầm, nước nóng, nước khoáng.
  • Tài nguyên biển: bờ biển dài 400 km, vùng biển có tiềm năng lớn để phát triển nhiều ngành kinh tế (đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, giao thông, du lịch)
  • Khoáng sản không nhiều, đáng kể nhất là trữ lượng than nâu trữ lượng dự tính là 8,8 tỉ tấn. Khí thiên nhiên được thăm dò và khai thác ở Tiền HảiThái Bình. Tuy nhiên, khoáng sản làm vật liệu xây dựng khá phong phú như đá vôi hàng tỉ tấn…

Cơ sở hạ tầng

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

Kết cấu hạ tầng phát triển mạnh (giao thông, điện, nước…),

Các ngành công nghiệp mà đồng bằng sông Hồng có là: luyện kim, cơ khí, hóa chất, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, nhiệt điện. Các ngành công nghiệp khai thác: khai thác khí dầu, khai thác đá vôi, khai thác cao lanh.

Giá trị sản xuất công nghiệp tăng mạnh từ 18,3 nghìn tỷ đồng (1995) lên 55,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 21% cả nước.[cần dẫn nguồn] Những nơi có nhiều ngành công nghiệp tập trung nhất là Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh.

Tính đến cuối năm 2009 Lưu trữ 2010-08-12 tại Wayback Machine, vùng Đồng bằng sông Hồng có 61 Khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên trên 13.800 ha, trong đó có 9.400 ha đất công nghiệp có thể cho thuê. So với cả nước, vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm 26% về số lượng KCN và 23% về diện tích đất tự nhiên các KCN.

Đồng bằng sông Hồng là khu vực có đất đai trù phú, phù sa màu mỡ.
Diện tích và tổng sản lượng lương thực chỉ đứng sau Đồng bằng Sông Cửu Long nhưng là vùng có trình độ thâm canh cao, lâu đời.

Sản lượng lúa của khu vực tăng từ 44,4 tạ/ha (1995) lên là 58,9 tạ /ha (2008)

Không chỉ có sản lượng lúa tăng mà còn có một số lương thực khác như ngô, khoai tây, cà chua, cây ăn quả… cũng tăng về mặt sản lượng và cả chất lượng. Đem lại hiệu quả cho ngành kinh tế của vùng. Vụ đông trở thành vụ sản xuất chính.

Nuôi lợn, bò và gia cầm cũng phát triển mạnh của vùng

Vùng duyên hải Bắc Bộ gồm Hải Phòng, Thái Bình, Nam ĐịnhNinh Bình nằm giáp biển, có nhiều cửa sông lớn đổ ra, thuận lợi phát triển nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản.

Đồng bằng sông Hồng là vùng có hạ tầng giao thông đồng bộ và thuận lợi, hoạt động vận tải sôi nổi nhất. Có nhiều đường sắt nhất đi qua các nơi khác nhau trong vùng.

Đồng bằng sông Hồng có nhiều địa danh du lịch như Tam Đảo, Hồ Tây, Chùa Hương, chùa Phật Tích, Tam CốcBích Động, Côn Sơn – Kiếp Bạc, Phố Hiến, Cúc Phương, Tràng An, Chùa Bút Tháp, Chùa Tam Chúc, Cát Bà, Phủ Dầy, Đền Trần, Chùa Keo, Chùa Dâu, Đền Đô, Vườn quốc gia Xuân Thủy, biển Quất Lâm

Sân bay: sân bay lớn nhất nằm ở Nội Bài (Hà Nội). Cảng: có cảng Hải Phòng lớn nhất nên Hà Nội và Hải Phòng là 2 đầu mối quan trọng. Cảng sông quan trọng là cảng Ninh Phúc và cảng Nam Định.

Bưu chính viễn thông phát triển mạnh của vùng. Hà Nội là trung tâm thông tin, tư vấn, chuyển giao công nghệ, có nhiều tài chính, ngân hàng lớn nhất Việt Nam.

  • Địa hình thấp, có nhiều ô trũng, mùa mưa dễ gây ngập lụt kéo dài và cuốn trôi hoa màu;
  • Đất phía trong đê không được bồi đắp thường xuyên và đang dần thoái hóa, rìa đồng bằng đất bạc màu;
  • Phải chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc với những đợt giá rét, khí hậu nhiệt đới ẩm dễ phát sinh dịch bệnh như sốt xuất huyết và khó khăn trong bảo dưỡng máy móc thiết bị sản xuất;
  • Nguồn tài nguyên trong khu vực hạn chế, phần lớn phải nhập khẩu nguyên nhiên liệu từ các vùng khác về.

[5]

Các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng

[

sửa

|

sửa mã nguồn

]

  • Mục dân số và diện tích ghi theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam trên trang Wikipedia tiếng Việt của các tỉnh thành Việt Nam.

Hiện nay, hầu hết các đô thị vốn trước đây là thị xã tỉnh lỵ của một tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng đều đã trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh (ngoại trừ thành phố Hà Nộithành phố Hải Phòng là hai thành phố trực thuộc Trung ương). Trong đó, tỉnh Vĩnh Phúc có thành phố là Vĩnh YênPhúc Yên, tỉnh Hải Dương có hai thành phố là Hải DươngChí Linh, tỉnh Bắc Ninh có hai thành phố là Bắc NinhTừ Sơn, tỉnh Ninh Bình có hai thành phố là Ninh BìnhTam Điệp.

Trong suốt thời kỳ từ đầu năm 1945 cho đến năm 1997, toàn vùng đồng bằng sông Hồng chỉ có ba thành phố là Hà Nội, Hải PhòngNam Định. Từ năm 1997 đến nay, lần lượt các thị xã được nâng cấp trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh.

Các thành phố lập đến năm 1975:

Các thành phố lập từ năm 1997 đến nay:

Hiện nay, ở vùng đồng bằng sông Hồng có 1 đô thị loại đặc biệt: thành phố Hà Nội (trực thuộc Trung ương); 4 đô thị loại I: thành phố Hải Phòng (trực thuộc Trung ương), thành phố Nam Định (thuộc tỉnh Nam Định), thành phố Bắc Ninh (thuộc tỉnh Bắc Ninh), thành phố Hải Dương (thuộc tỉnh Hải Dương). Các thành phố là đô thị loại II: thành phố Thái Bình (thuộc tỉnh Thái Bình), thành phố Ninh Bình (thuộc tỉnh Ninh Bình), thành phố Vĩnh Yên (thuộc tỉnh Vĩnh Phúc), thành phố Phủ Lý (thuộc tỉnh Hà Nam). Các thành phố còn lại hiện nay đều là các đô thị loại III trực thuộc tỉnh.

Tính đến ngày 14 tháng 2 năm 2023, vùng Đồng bằng sông Hồng có:

Vị trí, diện tích [sửa |sửa mã nguồn ]

Đồng bằng sông Hồng trải rộng từ vĩ độ 21°34´B ( huyện Lập Thạch ) tới vùng bãi bồi khoảng 19°5´B ( huyện Kim Sơn ), từ 105°17´Đ ( huyện barium Vì ) đến 107°7´Đ ( trên đảo Cát Bà ). Toàn vùng có diện tích 21.259,6 km², tỷ lệ khoảng 4,5 % tổng diện tích cả nước.

Phía bắc và đông bắc giáp Vùng Đông Bắc ( Việt Nam ), phía tây và tây bắc giáp vùng Tây Bắc, phía tây nam giáp vùng Bắc Trung Bộ, phía đông và đông nam là vịnh Bắc Bộ. Đồng bằng thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ các thềm phù sa cổ ten – 15m xuống đến các bãi bồi two – 4m ở trung tâm rồi các bãi triều hàng ngày còn ngập nước triều .

Đặc điểm tên gọi [sửa |sửa mã nguồn ]

Các nhà nghiên cứu như Giáo sư Trần Quốc Vượng gọi vùng này là châu thổ Bắc bộ mà không gọi đồng bằng sông Hồng vì lý make : [ one ]
Toàn bộ miền đồng bằng sông Hồng nằm trên một lớp đá kết tinh cổ, loại nền đá ở vùng Đông Bắc. Cách đây two hundred triệu năm, vào cuối đại Cổ sinh, lớp đá này bị sụt xuống. Vào thời đó, biển lên đến quá Việt Trì ngày nay, tiến sát các vùng đồi Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Nho Quan. Cửa sông Hồng lúc đó ở Việt Trì. Chế độ biển kéo dài trên one hundred seventy triệu năm. Các trầm tích Neogen lắng xuống làm cho vịnh biển thu hẹp lại. Lớp trầm tích này có nơi dày đến 3000 mét. Trên cùng là lớp phù sa Holocen dày từ eighty đến hundred mét ở trung tâm vùng đồng bằng sông Hồng, và càng xa trung tâm thì càng mỏng dần. Trong đồng bằng sông Hồng có nhiều ô trũng tự nhiên, điển hình là ô trũng Hà Nam Ninh, ô trũng Hải Hưng và ô trũng Nho Quan. Ngoài right ascension còn có rất nhiều đầm lầy. Trầm tích và phù sa act các sông vận chuyển right ascension khỏi lòng sông mỗi mùa lũ đã không lấp được các ô trũng và đầm lầy này act chúng quá xa sông hoặc do bị đê điều nhân tạo ngăn cản. Việc các sông đổi dòng cũng tạo ra nhưng đầm lầy và ao hồ .
Dân số khu vực Đồng bằng sông Hồng hiện nay là 21.848.913 người ( năm 2021 ) chiếm khoảng 22,3 % tổng dân số cả nước, [ four ] bình quân khoảng 1.450 người trên one kilometer vuông. Đây là vùng có mật độ dân số cao nhất cả nước.Đa số dân số là người Kinh, một bộ phận nhỏ thuộc barium Vì ( Hà Nội ) và Nho Quan ( Ninh Bình ) có thêm dân tộc Mường .

  • Dân cư đông nên có lợi thế: Có nguồn lao động dồi dào, nguồn lao động này có nhiều kinh nghiệm và truyền thống trong sản xuất, chất lượng lao động cao. Tạo ra thị trường có sức mua lớn.
  • Tuy nhiên lại gây sức ép lớn cho tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm, xuất hiện nhiều vấn đề về chỗ ở, việc làm, tỉ lệ phạm luật và tệ nạn xã hội cao.
  • Chính sách: có sự đầu tư nhiều của Nhà nước và nước ngoài.
  • Có lịch sử khai phá lâu đời, là nơi tập trung nhiều di tích, lễ hội, làng nghề truyền thống… với 2 trung tâm KT-XH là Hà Nội và Hải Phòng.

Vùng đồng bằng sông Hồng có vị trí chiến lược trong associate in nursing ninh-quốc phòng. Hiện nay, vùng đồng bằng sông Hồng do Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội và Quân khu two, Quân khu one, Quân khu three bảo vệ. Quân đoàn one, còn gọi là Binh đoàn Quyết Thắng, được thành lập ngày twenty-four tháng ten, đóng tại thành phố tam Điệp, Ninh Bình là một trong four binh đoàn chủ lực ở Việt Nam .

Tài nguyên thiên nhiên [sửa |sửa mã nguồn ]

  • Diện tích đất nông nghiệp khoảng 760.000 ha, trong đó 100% là đất phù sa màu mỡ, có giá trị lớn về sản xuất nông nghiệp. Đất nông nghiệp chiếm 51,2% diện tích vùng.
  • Khí hậu cận nhiệt đới ẩm, có mùa hè nóng ẩm nhưng mùa đông phi nhiệt đới lạnh và khô, làm cho cơ cấu cây trồng đa dạng. Tài nguyên khí hậu và thủy văn thuận lợi cho việc thâm canh tăng vụ trong sản xuất nông nghiệp. Thời tiết mùa đông rất phù hợp cho các cây trồng ưa lạnh
  • Tài nguyên nước phong phú, có giá trị lớn về kinh tế là hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Ngoài ra còn có nước ngầm, nước nóng, nước khoáng.
  • Tài nguyên biển: bờ biển dài 400 km, vùng biển có tiềm năng lớn để phát triển nhiều ngành kinh tế (đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, giao thông, du lịch)
  • Khoáng sản không nhiều, đáng kể nhất là trữ lượng than nâu trữ lượng dự tính là 8,8 tỉ tấn. Khí thiên nhiên được thăm dò và khai thác ở Tiền Hải – Thái Bình. Tuy nhiên, khoáng sản làm vật liệu xây dựng khá phong phú như đá vôi hàng tỉ tấn…

Cơ sở hạ tầng [sửa |sửa mã nguồn ]

Kết cấu hạ tầng phát triển mạnh ( giao thông, điện, nước… ) ,
Các ngành công nghiệp mà đồng bằng sông Hồng có là : luyện kim, cơ khí, hóa chất, vật liệu xây dựng, chế biến thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, nhiệt điện. Các ngành công nghiệp khai thác : khai thác khí dầu, khai thác đá vôi, khai thác cao lanh. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng mạnh từ 18,3 nghìn tỷ đồng ( 1995 ) lên 55,2 nghìn tỷ đồng, chiếm twenty-one % cả nước. [ cần dẫn nguồn ] Những nơi có nhiều ngành công nghiệp tập trung nhất là Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh. Tính đến cuối năm 2009 Lưu trữ 2010-08-12 tại Wayback machine, vùng Đồng bằng sông Hồng có sixty-one Khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên trên 13.800 hour angle, trong đó có 9.400 hour angle đất công nghiệp có thể cho thuê. so với cả nước, vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm twenty-six % về số lượng KCN và twenty-three % về diện tích đất tự nhiên các KCN .
Đồng bằng sông Hồng là khu vực có đất đai trù phú, phù sa màu mỡ. Diện tích và tổng sản lượng lương thực chỉ đứng sau Đồng bằng Sông Cửu long nhưng là vùng có trình độ thâm canh cao, lâu đời.

Sản lượng lúa của khu vực tăng từ 44,4 tạ/ha ( 1995 ) lên là 58,9 tạ /ha ( 2008 ) Không chỉ có sản lượng lúa tăng mà còn có một số lương thực khác như ngô, khoai tây, cà chua, cây ăn quả … cũng tăng về mặt sản lượng và cả chất lượng. Đem lại hiệu quả cho ngành kinh tế của vùng. Vụ đông trở thành vụ sản xuất chính. Nuôi lợn, bò và armed islamic group cầm cũng phát triển mạnh của vùng Vùng duyên hải Bắc Bộ gồm Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình nằm giáp biển, có nhiều cửa sông lớn đổ right ascension, thuận lợi phát triển nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản .
Đồng bằng sông Hồng là vùng có hạ tầng giao thông đồng bộ và thuận lợi, hoạt động vận tải sôi nổi nhất. Có nhiều đường sắt nhất đi qua các nơi khác nhau trong vùng. Đồng bằng sông Hồng có nhiều địa danh du lịch như tam Đảo, Hồ Tây, Chùa Hương, chùa Phật Tích, tam Cốc – Bích Động, Côn Sơn – Kiếp Bạc, Phố Hiến, Cúc Phương, Tràng associate in nursing, Chùa Bút Tháp, Chùa tam Chúc, Cát Bà, Phủ Dầy, Đền Trần, Chùa Keo, Chùa Dâu, Đền Đô, Vườn quốc armed islamic group Xuân Thủy, biển Quất Lâm … Sân bay : sân bay lớn nhất nằm ở Nội Bài ( Hà Nội ). Cảng : có cảng Hải Phòng lớn nhất nên Hà Nội và Hải Phòng là two đầu mối quan trọng. Cảng sông quan trọng là cảng Ninh Phúc và cảng Nam Định. Bưu chính viễn thông phát triển mạnh của vùng. Hà Nội là trung tâm thông tin, tư vấn, chuyển giao công nghệ, có nhiều tài chính, ngân hàng lớn nhất Việt Nam .

  • Địa hình thấp, có nhiều ô trũng, mùa mưa dễ gây ngập lụt kéo dài và cuốn trôi hoa màu;
  • Đất phía trong đê không được bồi đắp thường xuyên và đang dần thoái hóa, rìa đồng bằng đất bạc màu;
  • Phải chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc với những đợt giá rét, khí hậu nhiệt đới ẩm dễ phát sinh dịch bệnh như sốt xuất huyết và khó khăn trong bảo dưỡng máy móc thiết bị sản xuất;
  • Nguồn tài nguyên trong khu vực hạn chế, phần lớn phải nhập khẩu nguyên nhiên liệu từ các vùng khác về.

[5] Các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng [sửa |sửa mã nguồn ]

  • Mục dân số và diện tích ghi theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam trên trang Wikipedia tiếng Việt của các tỉnh thành Việt Nam.

Hiện nay, hầu hết các đô thị vốn trước đây là thị xã tỉnh lỵ của một tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng đều đã trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh ( ngoại trừ thành phố Hà Nội và thành phố Hải Phòng là hai thành phố trực thuộc Trung ương ). Trong đó, tỉnh Vĩnh Phúc có thành phố là Vĩnh Yên và Phúc Yên, tỉnh Hải Dương có hai thành phố là Hải Dương và Chí Linh, tỉnh Bắc Ninh có hai thành phố là Bắc Ninh và Từ Sơn, tỉnh Ninh Bình có hai thành phố là Ninh Bình và tam Điệp. Trong suốt thời kỳ từ đầu năm 1945 cho đến năm 1997, toàn vùng đồng bằng sông Hồng chỉ có barium thành phố là Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định. Từ năm 1997 đến nay, lần lượt các thị xã được nâng cấp trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh. Các thành phố lập đến năm 1975 :
Các thành phố lập từ năm 1997 đến nay :

Hiện nay, ở vùng đồng bằng sông Hồng có one đô thị loại đặc biệt : thành phố Hà Nội ( trực thuộc Trung ương ) ; four đô thị loại one : thành phố Hải Phòng ( trực thuộc Trung ương ), thành phố Nam Định ( thuộc tỉnh Nam Định ), thành phố Bắc Ninh ( thuộc tỉnh Bắc Ninh ), thành phố Hải Dương ( thuộc tỉnh Hải Dương ). Các thành phố là đô thị loại two : thành phố Thái Bình ( thuộc tỉnh Thái Bình ), thành phố Ninh Bình ( thuộc tỉnh Ninh Bình ), thành phố Vĩnh Yên ( thuộc tỉnh Vĩnh Phúc ), thành phố Phủ Lý ( thuộc tỉnh Hà Nam ). Các thành phố còn lại hiện nay đều là các đô thị loại three trực thuộc tỉnh .

Alternate Text Gọi ngay