Lịch sử mỹ thuật trung cổ và phục hưng

14/02/2023 admin
CHƯƠNG III :

LỊCH  SỬ MĨ THUẬT THẾ GIỚI

MĨ  THUẬT PHỤC HƯNG

MỤC  TIÊU BÀI HỌC

SINH VIÊN :

Hiểu được vài nét về nghệ thuật trung cổ, bước chuyển tiếp của nghệ thuật Phục hưng. Đồng thời hiểu được cơ sở hình thành và sự phát triển rực rỡ của nghệ thụât Phục hưng Ý

Biết một số tác phẩm mĩ thuật và một số tác giả tiêu biểu của nghệ thuật Phục hưng Ý

Sinh viên nắm được kiến thức chung và có thái độ yêu mến, tôn trọng các nền mĩ thuật nhân loại

                  I. MỘT SỐ NÉT CHUNG VỀ MĨ THUẬT THỜI TRUNG CỔ
1/ Kiến trúc thời trung cổ
2/ Điêu khắc thời trung cổ
3/ Nghệ
thuật vẽ tranh thời trung cổ

III.  MỘT SỐ TÁC GIẢ,TÁC  PHẨM TIÊU BIỂU  CỦA Ý THỜI KÌ 

PHỤC  HƯNG               

                                           1/ Họa sĩ Giotto di Bondone

                                                   2/ Hoạ sĩ Donatello

                                                   3/ Hoạ sĩ Masaccio

                                                   4/ Hoạ sĩ Botticelli

                                                   5/ Hoạ sĩ Léonardo de Vinci

                                                   6 Hoạ sĩ Michel Ange buonarroti

                                                   7/ Hoạ sĩ Raphaen Santi
II.  MĨ THUẬT PHỤC HƯNG  Ý

  1/ Cái tên “Phục hưng”

2/   Những cơ sở  hình thành và phát  triển của mĩ thuật  thời kì Phục hưng  Ý

3/  Các giai đoạn phát  triển của mĩ thuật  thời kì Phục hưng

 

I.  MỘT SỐ NÉT CHUNG  VỀ MĨ THUẬT THỜI  TRUNG CỔ

Sau khi đế chế La Mã sụp đổ, kết thúc thời kì cổ đại. Nhân loại bước vào thời kì Trung cổ. Đây là giai đoạn nằm giữa Cổ đại và Phục hưng và cũng chính là bước chuyển tiếp để nhân loại bước vào thời kì phat triển rực rỡ là nghệ thuật Phục hưng

Năm 63 TCN ở La Mã xuất hiện 1 tôn giáo mới – Kitô giáo. Đến thế kỉ IV đạo Kitô trở thành tôn giáo chính ở La Mã, nhà thờ, giáo hội trở thành nơi khống chế con người cả về thể xác lẫn linh hồn. Cuộc sống hiện thực không trở thành đối tượng của nghệ thuật tạo hình. Cái đẹp được hướng lên thế giới của Chúa trời và các thánh thần. Kiến trúc được xây dựng nhiều chủ yếu là các nhà thờ theo phong cách Roman, Gothic và Byzantine. Đi theo các công trình kiến trúc nhà thờ là các tác phẩm hội hoạ và điêu khắc với những đề tài tôn giáo trích từ kinh thánh.

1/ KIẾN TRÚC THỜI KÌ TRUNG CỔ

1.1 Kiến trúc Roman
1.2 Kiến trúc Gothic
1.3 Kiến trúc Byzantine

1.1 Kiến trúc Roman
–    Kiến trúc Roman là phong cách kiến  trúc ở các vùng Trung và Tây  Âu vào khoảng thế kỉ 9 đến  thế kỉ 11.Gồm các nước Pháp,  Anh, Ý, Bỉ, Hà Lan,Tây Ban Nha…

Loại hình kiến trúc không phong phú phần nhiều là kiến trúc tôn giáo như nhà thời thánh, tu viện và những nhà tại. Kiến trúc Roman là một khối nhà thấp, chắc như đinh, nhiều mảng lớn hơn những khoảng trống. Vật liệu đa phần bằng đá
Kiến trúc Roman tạo trong những nhà thời thánh những hàng cột, mỗi hàng một gian với vòm bán nguyệt trên mi cửa tạo cho nhà thời thánh sự chắc khỏe, Nhưng do hành lang cửa số nhỏ và ít nên nhà thời thánh thường thiếu ánh sáng .

thuật Roman còn hạn chế cho nên mặt bằng kiến trúc các bộ phận thường chỉ là vuông,tròn hay hình chữ thập La Tinh

NHÀ  THỜ KIỂU KIẾN   TRÚC ROMAN

1.2  Kiến trúc Gothic

– Kiến trúc Gothic sinh ra vào khoảng chừng thế kỉ 12 tại Pháp. Đáp ứng nhu yếu xử lý những hạn chế của của thể thức kiến trúc Roman .

– Bằng một số kĩ thuật mới các kiến trúc sư Gothic tạo ra những hàng cột bên vững chãi, đây là bộ cung kép để đỡ mái bên. Để nâng cao vòm nhà, họ tạo ra hệ thống vòng cung gãy, khởi đầu từ những đầu cột chính, cắt nhau tại tâm của vòm nhà. Các cửa sổ to và nhiều hơn so với kiến trúc Roman, đưa được nhiều ánh sáng vào thánh đường.

– Đặc điểm đặc trưng để phân biệt kiến trúc Roman với kiến trúc Gothic chính là những vòm nhọn, những mi cửa không còn là cung tròn mà là 1 nửa hình thoi .
– Sau này những kiến trúc sư Gothic đổi khác chút ít. Thay những cung nhọn bằng 2 cánh cung nối nhau ở đỉnh nhọn. Hình này là thể thức phối hợp giữa hai thể thức Roma và Gothic .

Vềthuật các nhà thờ Gothic vươn cao lên bầu trời, đồng thời ánh sáng vẫn chan hoà lòng thánh đường tạo một không gian tôn giáo thích hợp

Nhà  thờ Chartres ( Gothic)

Nhà  thờ Đức Bà Pari 

  <- Bên trong nhà thờ Đức Bà Pari

1.3  Kiến trúc Byzantine

Năm 476 đế quốc tây La Mã bị diệt vong chỉ còn đế quốc đông La Mã (đế quốc Byzance). Tại đây tồn tại một phong cách nghệ thuật gọi là Byzantine. Kiến trúc này vẫn phát triển theo truyền thống La Mã với các thể loại kiến trúc phong phú. Các công trình kiến trúc chủ yếu là các nhà thờ đồ sộ, nguy nga. Các công trình này được xây dựng dựa theo sự kết hợp thể thức kiến trúc mặt bằng chữ nhật La Mã và chữ thập của Hi Lạp. Đặc biệt là những nóc tròn,vòm cây đồ sộ. Trên các nóc vòm đó kiến trúc sư Byzantine còn cho dát các kim loại quý như vằng để tăng thêm phần sang trọng cho “ ngôi nhà của Chúa”

Nhà thờ thánh Sophia

2  / ĐIÊU KHẮC THỜI  KÌ TRUNG CỔ

Điêu khắc bắt đầu phục hồi trở lại vào thể kỉ XI và chủ yếu phát triển trong khuôn khổ nghệ thuật Gothic. Ban đầu do quy định nghiêm ngặt của giáo hội: hình tượng con người không được đề cập tới trong nghệ thuật tạo hình. Sau này khi không bị cản trở nữa, nghệ thuật tạo hình dần xuất hiện hình ảnh của con người. Ban đầu phát triển từ các phù điêu, hình tượng đắp nổi (Gothic) từ thấp đến cao dần và sau là tượng tròn.

Nghệ thuật Byzantine thì chủ yếu là sử dụng trang trí bằng các hoạ tiết phong phú và lộng lẫy về hình và màu sắc. Thuờng là các môtíp thực vật như hoa hồng, hoa cẩm chướng, lá nho…kết hợp với các hoa văn hình học từ thế kỉ XVI. Hoa văn động vật không được chú trọng

Cổng  phía Nam nhà thờ Chartres  ( Pháp)

bộ tứ mã mạ vàng ( byzantine )
Bình xông hương
Tiền vàng Byantine

Điêu khắc Byzantine

3.  NGHỆ THUẬT VẼ  TRANH THỜI TRUNG CỔ

3.1 Nghệ thuật   Roman

3.2 Nghệ thuật  Gothic

3.3 Nghệ thuật  Byzantine

3.1  Nghệ thuật Roman

– Sau 1 thời gian hạn chế và tàn lụi do sự sụp đổ của đế quốc La Mã. Nghệ thuật Roman bắt đầu được phục hồi trở lại. Thể loại tranh phát triển lúc này là những tranh khuôn khổ nhỏ, được gọi là các bức tiểu hoạ. Phù hợp cho việc minh hoạ các sách thánh kinh.

– Thể loại tranh này sắc tố đơn thuần, ngôn từ đặc trưng là nét. Bố cục rất đơn thuần, súc tích, dễ hiểu đồng thời thể hiện nội dung thâm thúy

            3.2 Nghệ thuật Gothic

Tranh thời kì này là những bức tranh mang sắc tố tôn giáo, ship hàng nhà thời thánh
Trong kiến trúc Gothic, những nhà thời thánh có nhiều khoảng trống, rất tương thích với loại tranh ghép kính màu. Nghệ sĩ bằng nhiều lớp kính màu đã tạo ra những bức tranh lộng lẫy nhiều sắc tố, ánh sáng huyền ảo … gợi không khí rất linh trong nhà của Chúa. Tranh kính màu tạo hiệu suất cao trang trí cao
– Đề tài trong tranh chính là những vị thánh, Chúa. Có thể là tranh đơn nhưng hoàn toàn có thể là những tranh đơn ghép thành những bức bình phong

Kính  màu thời kì đầu  của nghệ thụât  Gothic

Kính  màu trong nhà thờ  Milano

Tranh  kính  màu

Kính  màu trong nhà thờ  Milano

Nhà  thờ Giuse

Nhà  thờ Đức Bà   Pari

Tranh  kính  màu

3.3  Nghệ thuật Byzantine

Tranh của nghệ thuật Byzantine thường được làm bằng cách đắp ,khảm các mảnh gốm màu hoặc các mảnh đá, đề tài hầu hết là về kinh thánh, các câu chuyện về Chúa trời, Đức Mẹ và Chúa Hài đồng.

Tranh  khảm mô tả
Chúa sáng tạo thế giới

Bức tranh khảm miêu tả lễ đưa tro cốt thánh Mark vào nhà thời thánh tại nhà thời thánh thánh Marco

Đức Mẹ và
Chúa Giesu

Hoàng  đế La Mã phương  đông 

và  đức tổng giám  mục

II.  MĨ THUẬT PHỤC  HƯNG Ý

1.  Cái tên “ Phục  hưng”

2.  Những cơ sở hình  thành và phát triển  của mĩ thuật thời  kì Phục hưng Ý

2.1 Hoàn cảnh xã hội

2.2 Nghệ thuật

3.  Các giai đoạn phát  triển của thời  kì Phục hưng

3.1 Thời kì tiền Phục hưng
3.2 Thời kì Phục Hưng tăng trưởng

1.  Cái tên “Phục  hưng”

–    Người Ý cho rằng nền nghệ thuật  vẻ vang của họ thời La Mã  cổ đại đã bị một man tộc  ở Châu Âu phá huỷ cùng với   sự sụp đổ của La Mã.Vì vậy  sứ mệnh của họ là phải làm  cho nghệ thuật được sống lại,được  phục hồi

Đầu thế k ỉ XIV các nghệ sĩ Ý đã quyết  tâm tạo ra một nghệ thuật mới khác xa với nghệ thuật thời trung cổ. Cùng với đó là sự tái sinh của không chỉ mĩ thuật mà còn có  văn chương, các thuyết tâm linh…Đó là làn sóng mới về nghệ thuật mà người ta quen gọi là phong trào văn hoá Phục hưng.

Theo tiếng Pháp “ phục hưng” có nghĩa là tái sinh hay hồi phục. Ở đây được hiểu là sự tái sinh nghệ thuật,sự hồi sinh của tất cả những gì cao cả và vĩ đại

2.  Những cơ sở hình  thành và phát triển  của mĩ thuật thời  kì Phục hưng Ý
Đầu thế kỉ XIV,XV kinh  tế Ý phát triển mạnh, các trung tâm kinh tế ra đời phồn vinh và hưng thịnh. Xã hội Ý xuất hiện 1 tầng lớp mới: những thị dân giàu có – tiền thân của giai cấp tư  sản. Quan hệ tư bản chủ nghĩa ra đời. Nhu cầu về một nền nghệ thuật mới phục vụ cho tầng lớp mình dẫn đến thay đổi nhiều trong tư tưởng,quan điểm thẩm mĩ. Nghệ thuật tạo hình thời Trung cổ không còn đáp ứng được nhu cầu phát sinh của người dân nữa.

Cũng trong thời kì này nhiều phát kiến khoa học, công nghệ ra đời. Những phát minh khoa học và kĩ thuật trong công nghiệp và nông nghiệp làm cho sức sản xuất tăng lên nhanh chóng, đời sống người dân có nhiều thay đổi.

Từ nửa sau thế kỉ XV người Châu Âu đã tiến hành nhiều cuộc thám hiểm trên biển và tìm ra được những vùng đất mới, rút ngắn khoảng cách của các châu lục. Tạo khả năng cho sự giao lưu văn hoá Đông – Tây
2.1.  Hoàn cảnh xã hội

2.2 Điều kiện …

Một chất  liệu mới là sơn dầu ra đời  mang theo những ưu điểm nổi bật.  Sơn dầu là chất liệu ưu thế  trong biểu hiện. Màu sắc trong  trẻo, có độ sâu, bóng mà lại  không  thấm nước, màu bền và  giữ được lâu. Chất liệu này  đã được phổ biến rộng rãi  trong các hoạ sĩ khắp Châu Âu,  nhất là ở Ý. Đây là chất  liệu thực sự đã đi vào lịch  sử Mĩ thuật như là một cuộc  cách mạng trong kĩ thuật chất  liệu

Đầu thế kỉ XV phép phối cảnh hay còn gọi là luật xa gần đã sinh ra. Các họa sỹ mê hồn nghiên cứu và điều tra, hoàn thành xong và vận dụng vào trong những bức tranh của mình .

Cùng với đó là sự dũng cảm vượt qua rào cản tôn giáo để tìm tòi và nghiên cứu tỉ lệ và giải phẫu con người. Kĩ thuật in phát triển đồng thời nhiều sách về giải phẫu con người được xuất bản. Tạo điều kiện cho các hoạ sĩ đi sâu hơn trong nghiên cứu tìm ra các cách thể hiện tranh một cách hài hoà cân đối

3.  Các giai đoạn phát  triển của Mĩ thuật  thời kì Phục hưng

3.1 Thời kì tiền Phục hưng
3.2 Thời kì Phục hưng tăng trưởng

3.1.  Thời kì tiền Phục  hưng

Mỹ thuật Phục hưng bắt đầu ở Ý với trung tâm là Florence vào cuối thế kỉ XIV. Đến thế kỉ XV thì hội hoạ phát triển mạnh hơn với một số những tên tuổi nổi tiếng. Tuy nhiên về phong cách nghệ thuật chưa được định hình vì vậy mới gọi thời kì này là thời kì tiền Phục hưng.

       Hội hoạ: có sự thay đổi lớn lao. Hình tượng nhân vật được diễn tả khối. Quan niệm nghệ thuật hiện thực được chú trọng. Con người xuất hiện trong tranh giống như cuộc đời: sống động và giàu tình cảm.

       Điêu khắc: cũng có nhiều thay đổi, được đánh giá bằng những thành tựu lớn.

       Kiến trúc: Kiến trúc thế tục vượt qua trình độ phát triển của kiến trúc tôn giáo. Thời kì này là sự kết hợp giữa kiến trúc thời Trung cổ (Gothic) với nghệ thuật kiến trúc La Mã. Sang nửa thế kỉ XV phong cách có sự thay đổi bởi sự tính lặng nghiêm trang, thoáng đạt hơn và trang trí nhiều hơn.

3.2.  Thời kì Phục hưng  phát triển

– Thế kỉ XVI được gọi là thể kỉ của Phục hưng cổ điển. Đây là thời kì phát triển vô cùng rực rỡ của nền mĩ thuật nhân loại, sản sinh nhiều hoạ sĩ vĩ đại và rất nhiều tác phẩm hội hoạ, các công trình kiến trúc, điêu khắc có giá trị.

– Các tác phẩm thời kì này đạt tới đỉnh cao, hoàn thiện và mẫu mực hơn cả về định hình lẫn phong cách.

– Nền nghệ thuật lúc này đã đi theo hướng hiện thực, tự nhiên, đề cao vẻ đẹp và ca ngợi con người hoàn thiện. Thời kì này là sự phát triển rực rỡ của cả hội hoạ, điêu khắc và kiến trúc.

– Các tranh được yêu quý nhất thời kì này chính là tranh chân dung, tranh tôn giáo, truyền thuyết thần thoại, hoạt động và sinh hoạt … Phát triển loại tranh bích họa .
– Các TT lớn như : Roma, trở thành nơi lôi cuốn những danh họa Ý cũng như nhiều họa sỹ ở những vương quốc khác. Nơi đây được coi như trường học lớn, nơi huấn luyện và đào tạo ra nhiều họa sỹ kĩ năng, bậc thầy cho nề hội họa quốc tế .

III.  MỘT SỐ TÁC GIẢ  TÁC PHẨM TIÊU BIỂU  CỦA Ý THỜI KÌ  PHỤC HƯNG

1.  Hoạ sĩ Giotto di  Bondone 

Sinh năm 1267 và mất ngày 8-1- 1337. Ông được biết đến với cái tên đơn giản là Giotto, là một hoạ sĩ, nghệ sĩ ghép mảnh và kiến trúc sư người Ý. Ông được coi như một trong những hoạ sĩ vĩ đại nhất thời kì Phục hưng Ý.

Sáng tác của ông là những câu truyện tôn giáo sinh động. Thiên nhiên, con người được quan tâm và được diễn đạt trong một khung cảnh đơn cử, khoáng đạt, ngặt nghèo và bộc lộ được khát vọng hiện thực thâm thúy .

Bức  tranh được trỉch từ bộ tranhtại  nhà thờ Denarena. Tranh diễn tả  Chúa Giesu bị Giuda phản bội.
Tác phẩm thành công ở cách hoạ sĩ diễn tả sự lộn xộn của đám đông lính vây quanh Chúa. Đặc biệt là nhân vật Giuda. Trung tâm tranh là hình tượng Giuda đang hôn Chúa với tà áo màu vàng sáng. Giuda trở thành điểm hút mắt người xem.Giấu trong tà áo đẹp ấy là một tâm hồn xấu xa, phản trắc

Phản  bội Chúa

Bằng sự tương phản mang tính tượng trưng thâm thúy đó. họa sĩ Giotto đã biểu lộ được sự phản bội của tên Giuda một cách minh bạch, rõ ràng nhất

ĐÁM TANG CHÚA

Tranh bích họa tại nhà thời thánh Arena ở Ý
Angelbust ( Tòa thánh Vatican )

2.  Hoạ sĩ Donatenlo

Ông sinh năm 1386-1466. là một trong những hoạ sĩ, điêu khắc gia thuộc thời kì Phục hưng sơ khai, được người đương thời xem là “một nhà sáng tạo cái mới”
Ông là một nhà điêu khắc tài năng, nghệ thuật của ông mang tư tưởng nhân văn, miêu tả vẻ riêng của con người cả bên ngoài lẫn bên trong.

Ông là người thực thi những tác phẩm bằng đồng tiên phong, trình diễn những ý tưởng sáng tạo tự do với những nhóm tượng đứng .

Thánh  Jean Evangélise

Tượng  Davit

Đây là tượng kị mã đầu tiên của thời kì Phục hưng.
Nó là tác phẩm nổi tiếng về thủ lĩnh quân sự Gattamelata.
Pho tượng được làm năm 1447 và cao 3,04m.

Thủ  lĩnh Gattaelata

DAVIT

BỮA TIỆC CỦA CÁC NGƯỜI HÙNG ( feast of Heros )
Tác phẩm năm 1460 ( The Martyrdom of St. Lawrrenc )

Madona  Oriandini
80 x 69 cm

3.  Hoạ sĩ Masaccio (1401  – 1428)

Bức  tranh diễn tả cảnh Adam và Eva  bị đuổi khỏi vườn địa đàng,xuống  trần gian. Hai cơ thể khoả thân   mềm mại chất da thịt được  diễn tả trong bố cục đứng là  một thành công lớn trong cách giải  quyết đề tài của hoạ sĩ. Chân  Adam còn chưa bước khỏi cổng  địa đàng. Tâm trạng của hai  người cũng được hoạ sĩ hết  sức nhấn mạnh. Adam ôm mặt ân  hận, còn Eva thì ngửa mặt lên  than khóc, đau đớn về tội lỗi  của mình. Con người trong bức  tranh hiện lên với đầy đủ vể  đẹp mà tạo hoá đã ban cho  và khoả thân như buổi đầu tiên  cất tiếng khóc chào đời.
Màu sắc trong tranh rất nhẹ nhàng, trừ mảng màu đỏ có hình tượng thiên thần, còn tất cả hoà trong các sắc vàng trong sáng, nhẹ nhàng. Bên cạnh đó còn có sự rành mạch đậm nhạt gợi vẻ cứng rắn của cánh cửa địa đàng

ADAM  VÀ EVA

4.  Hoạ sĩ Botticelli  (1445-1510)

Theo thần thoại cổ xưa Hi Lạp, thần Vệ Nữ sinh ra từ những giọt máu của thần Bầu trời Uranot rơi xuống từ biển khơi. Thần sắc đẹp và tình yêu được sinh ra nhờ sự tích hợp tinh túy nhất của trời và biển .
Trong tranh ông vẽ thần Vệ nữ là một cô gái đẹp mảnh dẻ, lả lướt với những lọn tóc vàng dày, nặng tuy nhiên mền mại cuộn rủ xuống thân hình khỏa thân. Nàng đang đứng trên một vỏ sò lớn, được những thần Gió thổi, đẩy vào bờ. Bên phải là thần hoa Plora đang mang một tấm khăn lớn màu đỏ choàng cho thần Vệ Nữ. Thần Vệ Nữ khỏa thân với khung hình thướt tha, da thịt căng tròn, đầy xúc cảm khiến người xem ngây ngất, sửng sốt trước vể đẹp của nàng

Mùa  xuân

Truyền  tin

5.  Hoạ sĩ Leonardo de  Vinci (1452-1519)

Sinh 15/4/1452 tại Anchianno, Ý. Mất 2/5/1519 tại Amboise Pháp. Ông là một họa sỹ, một nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kĩ sư, nhà giải phẫu, nhà phát minh sáng tạo và là nhà triết học tự nhiên. Ông được coi là một thiên tài toàn năng người Ý .
Chân dung nàng Monalisa trong tranh sôi động đến mức ta có cảm xúc có thêm một người bạn. Vẻ đẹp ngoại hình lẫn vẻ đẹp nội tâm, tính cách đã nêu lên sự hòa hòa cân đối cho hình tượng nhân vật. Ngoài việc miêu tả chất da thịt sôi động, tác phẩm còn thành công xuất sắc ở viẹc diễn đạt khuôn mặt Monalisa. Nhất là nụ cười của nàng. Họa sĩ đã nhấn đậm 2 khóe môi, tích hợp với những đường cong lên của mắt, mũi miệng đã tạo ra được nục cười đặc biệt quan trọng, ttồn tại mấy trăm năm nay mà vẫn làm mọi người mê hồn, hâm mộ. Chân dung nàng được đặt trước cảnh sắc núi non xa trập trùng mờ ảo. Điều đó bộc lộ rõ ràng tâm lí thẩm mĩ thời kì Phục hưng : con người là TT của thiên hà, con người ở giữa vạn vật thiên nhiên, giao hòa và là một tác nhân của vạn vật thiên nhiên .

Monalisa

Leda  và thiên nga

Đức Mẹ Litta

Bữa  tiệc cuối cùng

6.  Hoạ sĩ Michel Ange  Buonarrti (1475-1564)

Đức Mẹ sầu bi

Khi nhận được hợp đồng làm tác phẩm này Mikenlang đã bỏ 5 năm mới làm xong tác phẩm. Ông thực sự thành công xuất sắc trong việc diển tả nỗi đau, lòng thương xót của Đức Mẹ khi bế trên tay Chúa Giesu đã qua đời. Ông đã sử dụng giải pháp trái chiều giữa nét thướt tha biểu lộ những nếp áo, váy nhiều mẫu mã phong phú với mảng phẳng nhẵn của khung hình Chúa Giesu. Sự trái chiều đó đã làm điển hình nổi bật hai nhân vật khác hẩn nhau, giữa sự sống và cái chết .

Năm 1501  đến 1504 với khối đá mà Auguttino  di Duyc xio bỏ dở. Mikenlang đã  tạo ra pho tượng người anh hùng  Đa-vit của dân Hesbreuk đã chiến  thắng người khổng lồ Goliat. Pho  tượng Đa-vit có thể coi như đồng  nghĩa với “sự hoàn thiện”. Hoàn  thiện ở đây là hoàn thiện về  tỉ lệ, về sự hài hoà giữa  vẻ đẹp thể chất và vẻ đẹp  tinh thần. Đá cẩm thạch dưới  bàn tay và khối óc của nhà  nghệ sĩ như đã thành chất da  thịt sống động. Thậm chí những  đường gân mạch máu được diễn  tả chính xác nhất là trên đôi  bàn tay Mọi chi tiết của tượng  Đa-vit đều đặt tới sự mẫu  mực, chính xác của cơ thể con  người

1508 Mikenlang  vẽ tranh cho trần giáo đường  Xittin. Sau bốn năm làm việc vất  vả một mình ông đã hoàn thành  tác phẩm vĩ đại này: khoảng  100m2 tranh với vài trăm nhân vật  nhân vật diễm tả những đoạn  thánh kinh về các ông bà tiên  tri, về việc Chúa trời tạo dự  ng trái đất. Tạo dựng con người…Tác  phẩm được vẽ bằng màu lên  các lớp vữa ẩm ( tranh nề)  . Toàn bộ tác phẩm ca ngợi  sức sáng tạo của con người,  vẻ đẹp hoàn mĩ của con người.
– Tác phẩm hoàn thành năm 1512

Ngày  và đêm 
(tranh trên nhà mồ Medixi)

Ngày  phán xét cuối cùng

( tranh trên nhà thời thánh Xittin )

Chúa  tạo ra Ađam

7.  Hoạ sĩ Raphael Santi  (1483-1520)

Madonadel  Granduca
(điện Pihi-Florence)

Đức Mẹ Sittinne

Đức Mẹ  đồng trinh
và Chúa hài đồng

Trường  học Aten (1510-1512)

Advertisement

Cài đặt chính sách riêng tư

Share this:

Thích bài này:

Thích

Đang tải …

Alternate Text Gọi ngay