Sơ đồ tư duy bài Bếp lửa (năm 2022) dễ nhớ – Ngữ văn lớp 9

07/10/2022 admin

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Bếp lửa hay nhất, gồm 11 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Bếp lửa Ngữ văn lớp 9.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Bếp lửa dễ nhớ, ngắn nhất – Ngữ văn lớp 9:

BẾP LỬA

Bài giảng: Bếp lửa

A. Sơ đồ tư duy Bếp lửa

1

B. Tìm hiểu Bếp lửa

I. Tác giả

– Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Bằng Việt. Sinh năm 1941, quê ở xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, Hà Tây ( nay là Thành Phố Hà Nội ) .
– Bằng Việt thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mềm mại và mượt mà khai thác những kỉ niệm và tham vọng tuổi trẻ .
– Các tác phẩm chính của Bằng Việt gồm : Hương cây – Bếp lửa ( 1968 ) ; Những khuôn mặt những khoảng cách ( 1973 ) ; Bếp lửa – khoảng chừng trời ( 1988 ) …

II. Tìm hiểu chung tác phẩm

1. Thể loại : Thơ tự do
2. Hoàn cảnh sáng tác :
Bài thơ Bếp lửa được Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi ấy tác giả đang là sinh viên học luật ở Liên Xô .
3. Bố cục : 4 phần
– Phần 1 : ( Khổ 1 ) : Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm hứng hồi tưởng về bà .
– Phần 2 : ( Khổ 2,3,4,5 ) : Những kỷ niệm ấu thơ, hình ảnh bà và bếp lửa .
– Phần 3 : ( Khổ 6 ) : Những tâm lý của tác giả về bếp lửa và cuộc sống bà .
– Phần 4 : ( Khổ 7 ) : Nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa .
4. Giá trị nội dung
Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “ Bếp lửa ” gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời bộc lộ lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu so với bà cũng là so với mái ấm gia đình quê nhà quốc gia .
5. Giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ
Bài thơ đã tích hợp thuần thục giữa biểu cảm với miêu tả tự sự và phản hồi. Thành công của bài thơ còn ở sự phát minh sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi một kỷ niệm, cảm hứng, tâm lý về bà và tình bà cháu .

III. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Những kỉ niệm tuổi thơ và tình bà cháu

– Dòng hồi tưởng về bà bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa :
+ Bếp lửa “ chờn vờn sương sớm ” – bếp lửa thực .
+ Bếp lửa “ ấp iu nồng đượm ” diễn đạt sự dịu dàng êm ả, ấm cúng, kiên trì của người nhóm lửa .
+ Biện pháp điệp từ “ bếp lửa ” gợi lên hình ảnh sôi động lộng lẫy nhưng rất là quen thuộc thân mật với người cháu .
→ Hình ảnh bếp lửa làm trỗi dậy dòng kí ức về bà và tuổi thơ .
– Kỉ niệm về tuổi thơ nhiều khó khăn, thiếu thốn :
+ “ đói mòn đói mỏi ” người cháu thấy ám ảnh bởi nạn đói và quá khứ đau thương của dân tộc bản địa .
+ Ấn tượng về khói bếp hun nhèm mắt cháu để khi nghĩ lại “ sống mũi còn cay ” .
+ Dòng hổi tưởng, kỉ niệm gắn với âm thanh tiếng tu hú của chốn đồng nội : tiếng tu hú được nhắc tới 5 lần trong bài khi thẳng thốt, lúc khắc khoải, mơ hồ toàn bộ để gợi lên khoảng trống bát ngát, bát ngát, buồn vắng đến lãnh đạm .
+ Tâm trạng của cháu cho nên vì thế cũng tha thiết, mãnh liệt hơn bởi sự đùm bọc, che chở của bà .
– Tuổi thơ khó khăn vất vả gian nan nhưng cháu được mà yêu thương, che chở :
+ “ bà dạy ”, “ bà chăm ” bộc lộ sâu đậm tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương vô bờ và sự chăm chút của bà so với cháu .
+ Ngay cả trong gian khó, gian truân của cuộc chiến tranh bà vẫn vững vàng – phẩm chất cao quý của những người mẹ Nước Ta anh hùng .
→ Qua dòng hồi tưởng về bà, những dòng xúc cảm của nhân vật trữ tình chính là sự phối hợp, xen kẽ thuần thục giữa những yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự, nỗi nhớ của người cháu biểu lộ tình yêu thương vô hạn so với bà .

2. Những suy ngẫm chiêm nghiệm về cuộc đời của bà cũng như hình tượng bếp lửa

– Từ những kỉ niệm, hình ảnh bếp lửa luôn gắn với hình ảnh người bà :
+ Hình ảnh bếp lửa kết tinh trong hình ảnh ngọn lửa : ngọn lửa của tình yêu thương, sự hi sinh luôn ủ sẵn trong lòng bà để làm sáng lên kỳ vọng, ý chí .
+ Điệp ngữ “ một ngọn lửa ” nhấn mạnh vấn đề tình yêu thương ấm cúng bà dành cho cháu, người bà nhen nhóm những điều tốt đẹp so với cháu .
→ Hình ảnh người bà trong lòng cháu là người thắp lửa, giữ lửa và truyền lửa, truyền niềm tin, sức sống tới thế hệ tương lai .
– Sự tần tảo, hi sinh của bà biểu lộ : “ Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa ” : sự chiêm nghiệm của cháu về cuộc sống bà .
+ Cuộc đời bà đầy những khó khăn, khó khăn vất vả, lận đận trải qua nắng mưa tưởng như không khi nào dứt .
+ Điệp từ “ nhóm ” lặp lại bốn lần : người bà đã nhóm lên, khơi dậy những yêu thương, kí ức và giá trị sống tốt đẹp trong lòng người cháu .
– Hình ảnh bếp lửa kết tinh thành hình ảnh ngọn lửa chất chứa niềm tin, kỳ vọng của bà :
+ Người cháu như phát hiện ra điều kì diệu giữa đời sống đời thường “ Ôi kì khôi và thiêng liêng – bếp lửa ” : người cháu thấm nhuần được tình yêu thương và đức hi sinh của bà .

3. Nỗi nhớ khắc khoải, khôn nguôi về người bà

– Lời tự bạch của đứa cháu khi trưởng thành, xa quê nhà : người cháu vẫn cảm thấy ấm cúng bởi tình yêu thương vô bờ của bà .
– Kết thúc bài thơ tác giả tự vấn “ Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ? ” : niềm tin dai dẳng, nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng người cháu .

IV. Bài phân tích

Đối với mỗi người tất cả chúng ta, tình cảm mái ấm gia đình vẫn luôn là thứ tình cảm đáng quý và đáng trân trọng nhất. Nhưng khi quốc gia có cuộc chiến tranh thì người dân vẫn gật đầu bỏ lại mái ấm gia đình để lên đường đi chiến đấu. Chính từ tình yêu mái ấm gia đình đã hình thành nên tình yêu so với Tổ quốc. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ phải sống xa cha mẹ vì cha mẹ nhưng như vậy không có nghĩa là nhà thơ sống thiếu thốn tình cảm. Ngược lại, nhà thơ Bằng Việt lớn lên trong tình yêu thương và dạy bảo của người bà kính yêu. Chính thế cho nên mà khi lớn lên, phải xa nhà, xa bà, có bao nhiêu nỗi nhớ, tác giả dành cả cho bà của mình để rồi bài thơ Bếp lửa đã sinh ra từ nỗi nhớ ấy .
Bài thơ “ Bếp lửa ” như tiếng lòng của người cháu dành cho bà suốt những năm tháng ấu thơ khó khăn vất vả, bộn bề lo âu. Hình ảnh “ bếp lửa ” thân mật, bình dị trong mỗi mái ấm gia đình Nước Ta thời xưa nhưng có vẻ như có sức ám ảnh và lay động tác giả. Vì bếp lửa gắn với bà, gắn với kỉ niệm ấu thơ không hề phai nhòa :
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa !
Điệp từ “ một bếp lửa ” có sức tiềm ẩn tình cảm và cảm hứng rất lớn và chân thành, thôi thúc tác giả luôn có một nỗi nhớ thường trực ở trong đó. Hình ảnh bếp lửa “ chờn vờn ” và “ ấp iu ” diễn đạt sự gắn bó, không hề tách rời. Một loạt những ký ức về bà, về kí ức thời xưa cứ thế dội về can đảm và mạnh mẽ, khiến tác giả phải thốt lên “ ôi ”. Một từ “ ôi ” mang nặng ân tình, thiêng liêng, nồng đượm biết bao nhiêu. Hẳn rằng Bằng Việt đã có những năm tháng đáng nhớ, đáng trân trọng bên cạnh bà .
Cùng với tình thương ấy, những hồi ức của tuổi thơ hiện lên trong đầu tác giả. Mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn nên cứ ngỡ như là chuyện vừa mới xảy ra ngày ngày hôm qua vậy :
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Năm đói mòn đói mỏi ấy chính là năm 1945, nhân dân miền Bắc rơi vào nạn đói kinh khủng. Nó cướp đi sinh mạng của không biết bao nhiêu người dân vô tội. Nhà thơ đã lớn lên trong toàn cảnh quốc gia như vậy thế nhưng trong kí ức nhà thơ không có hình ảnh người chết đầy đường, không bị mùi tanh thối ám ảnh. Đó là chính do mùi khói bếp đã át đi hết những cảnh đau thương ngoài kia. Đó là cách để người bà làm cho đời sống của cháu bớt đau thương hơn. Mùi khói đã hun nhèm đôi mắt của người cháu để rồi hơn mười năm sau, nghĩ lại chuyện cũ sống mũi vẫn còn cay. Có lẽ sự xúc động đã khiến cho mắt nhà thơ nhòe đi, cay xè vì những kỉ niệm đói khổ. Bà đã cùng cháu đi qua những năm tháng đói khổ như vậy. Để rồi suốt những năm tháng tuổi thơ, hình ảnh người bà vẫn gắn liền bên cháu. Hai bà cháu đã cùng nhau nhóm lên không biết bao nhiêu ngọn lửa trong suốt tám năm :
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
“ Tám năm ròng ” là thời hạn dài đằng đẵng, thời hạn tuổi thơ của cháu nhọc nhằn bên cạnh bà. Bà và cháu cùng nhóm lửa, nhóm lên sự sống và nhóm lên tình yêu thương vô bờ bến. Tiếng “ tu hú ” trở đi trở lại trong đoạn thơ rất nhiều khiến cho nhịp thơ da diết, bồn chồn. Tu hú gọi hè, tu hú gọi lúa chín, gọi cả những giấc mơ của cháu về tương lai quốc gia tự do độc lập .
Mẹ cùng cha công tác làm việc bận không về
Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Một khổ thơ xúc cảm được bật ra sau bao nhiêu năm kìn nén ở trong. Năm tháng sống bên cạnh bà tuy khó nhọc nhưng tràn trề ân tình. Cậu bé nhỏ thương bà khó nhọc bên bếp lửa, thương cho bà một mình nuôi cháu. Và tiếng kêu của tu hú lại khiến cho tâm sự của người cháu trở nên nặng nề hơn. Tình bà cháu trong đoạn thơ này thực sự khiến người đọc chùng lại, rưng rưng nước mắt. Đất nước chìm trong bom đạn nhưng bà vẫn luôn chở che, chăm sóc cho cháu từ bữa ăn đến giấc ngủ. Còn tình cảm nào thiêng liêng và cao quý hơn nữa .
Nhưng cuộc chiến tranh đã cướp đi bao nhiêu thứ, máu và nước mắt, cả tình yêu :
Hàng xóm bốn bên trở lại lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên
Đức hi sinh cao quý của người mẹ dành cho con, của người bà dành cho cháu. Dù khó khăn, dù mất mát nhưng hậu phương luôn phải là chỗ dựa vững chãi và bình yên nhất cho tiền tuyến. Hình ảnh người bà trong đoạn thơ này đầy đức hi sinh cho mái ấm gia đình, cho tổ quốc. Lời dặn dò của bà so với cháu nặng tựa nghìn non, chất chứa nghĩa tình sâu đậm. Bà yêu thương cháu, thương con, thương cho quốc gia lầm than. Ngôi nhà nhỏ vắng người, chỉ có hai bà cháu. Bà đã thay cha mẹ, làm trách nhiệm của cha mẹ đó là dạy cháu làm, chăm cháu học. Bà dù già yếu nhưng vẫn tận tụy hết lòng vì cháu. Chính vì thế mà hình ảnh bếp lửa, hình ảnh người bà hiện lên càng ấm cúng hơn. Hai bà cháu đã lệ thuộc vào nhau để sống qua những ngày tháng khó khăn vất vả như vậy. Chính từ tình cảm ấy nên khi nhà thơ đi xa, nỗi nhớ thương bà càng lớn hơn. Nhà thơ đi xa rồi, thương cho bà ở nhà không có ai chăm nom. Câu hỏi tu từ Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà giống như một lời than phiền biểu lộ nỗi nhớ mong bà thâm thúy. Hai từ bà, cháu được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ này, biểu lộ sự sóng đôi, quấn quýt, gắn bó giữa bà và cháu. Từ hình ảnh bếp lửa, nhà thơ đã nâng lên thành hình ảnh ngọn lửa :
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Hình ảnh ngọn lửa như bừng sáng và nó có một sức truyền cảm vô cùng can đảm và mạnh mẽ. Ngọn lửa ở đây là ngọn lửa của tình yêu thương, của sức sống mãnh liệt, của tình yêu thương thầm lặng, của niềm tin vào tương lai quốc gia. Điệp từ “ một ngọn lửa ” tiếp nối đuôi nhau nhau đã tạo nên một nhịp thơ can đảm và mạnh mẽ, chắc khỏe nhưng cũng rất lộng lẫy và đủ sức làm ấm lòng người đọc. Để từ đó kỷ niệm tuổi thơ dần chuyển sang những tâm lý về bà bằng tổng thể sự biết ơn của cháu. Sau bao nhiêu khó khăn vất vả, khổ cực bà vừa là người giữ lửa vừa là người truyền lửa cho cháu. Bà “ nhóm niềm yêu thương ” trong cháu, truyền cho cháu tình yêu thương, cho cháu hiểu thế nào là tình làng nghĩa xóm, khơi dậy trong cháu biết bao điều tốt đẹp. Chính vì thế mà cứ nhìn thấy ngọn lửa là người cháu lại cảm thấy như nhìn thấy bà của mình. Cuối bài thơ, nhà thơ liên tục suy ngẫm về bà và bếp lửa :
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa chứng minh và khẳng định lại cái tình cảm thâm thúy của hai bà cháu. “ Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi ”, nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không khi nào được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn vất vả mà hai bà cháu đã sống với nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn. Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui của bà hay là lời răn dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng khi nào có một lối sống ích kỉ. Bà không chỉ là người chăm sóc cho cháu rất đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị và đơn giản nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim .
Khổ thơ ở đầu cuối là thời gian quay trở lại thực tại của tác giả, giống như là một chuyến đi quay trở lại tuổi thơ. Giọng thơ chùng xuống, xúc cảm nghẹn ngào :
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng khi nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa
Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm giữa hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái mùa đông lạnh ngắt của nước Nga. Đứa cháu nhỏ của bà rất lâu rồi giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Người cháu sẽ không khi nào quên và không thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó .
Bài thơ “ Bếp lửa ” của Bằng Việt là một bài thơ dạt dào cảm hứng. Hình tượng bếp lửa được bộc lộ độc lạ qua giọng điệu tâm tình, thiết tha ; nhịp điệu thơ linh động ; tích hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ so với người bà kính yêu. Qua đó, tất cả chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trân trọng hơn tình cảm so với mái ấm gia đình, với quê nhà, quốc gia .

V. Một số lời bình về tác phẩm

Bài thơ viết về hình ảnh bà :

Bà ơi!

Cháu ở nơi quê nhà
Bà chân trời góc bể
Chưa cần đọc trong thư

Đã biết bà không khỏe

Chữ ngả nghiêng bốn phía
Hàng nối hàng xẹo xiên
Bởi mắt mờ tay run
Kết từng dòng thương nhớ

Miền cực Nam Trung Bộ
Quanh năm rất ít mưa
Bà trồng nho, cấy lúa
Vất vả chắc có thừa

Ước một lần vô đó
Để nắm bàn tay gầy
Gỡ rối làn tóc bạc
Hàn huyên bõ những ngày .

Cuộc đời tuy chật vật
Nhưng tâm hồn thảnh thơi
Bởi bóng bà luôn tỏa
Che đời cháu, bà ơi !
( Hồ Cẩm Sa, trong Văn học mần nin thiếu nhi, tập 2 )

Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Bếp lửa

Phân tích bài thơ Bếp lửa năm 2021

Dàn ý chi tiết Phân tích bài thơ Bếp lửa

1. Mở bài:Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:

– Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong trào lưu kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông trong trẻo, quyến rũ, khai thác những kỉ niệm đẹp và tham vọng tuổi trẻ
– Bài thơ “ Bếp lửa ” được sáng tác năm 1963 khi tác giả là du học sinh Liên Xô
– Chủ đề bài thơ gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu thâm thúy, thấm thía

2. Thân bài:

* Những kỉ niệm tuổi thơ và tình bà cháu

– Dòng hồi tưởng về bà bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa
+ Bếp lửa “ chờn vờn sương sớm ” – bếp lửa thực
+ Bếp lửa “ ấp iu nồng đượm ” diễn đạt sự êm ả dịu dàng, ấm áo, kiên trì của người nhóm lửa
+ Biện pháp điệp từ ( điệp từ “ bếp lửa ” ) gợi lên hình ảnh sôi động lộng lẫy nhưng rất là quen thuộc thân thiện với người cháu
– Hình ảnh bếp lửa làm trỗi dậy dòng kí ức về bà và tuổi thơ
– Kỉ niệm về tuổi thơ nhiều gian nan, thiếu thốn
“ Đói mòn đói mỏi ” người cháu thấy ám ảnh bởi nạn đói và quá khứ đau thương của dân tộc bản địa
+ Ấn tượng về khói bếp hun nhèm mắt cháu để khi nghĩ lại “ sống mũi còn cay ”
+ Dòng hồi tưởng, kỉ niệm gắn với âm thanh tiếng tu hú của chốn đồng nội : tiếng tu hú được nhắc tới 5 lần trong bài khi thảng thốt, lúc khắc khoải, mơ hồ toàn bộ để gợi lên khoảng trống bát ngát, bát ngát, buồn vắng đến hờ hững
+ Tâm trạng của cháu cho nên vì thế cũng tha thiết, mãnh liệt hơn bởi sự đùm bọc, che chở của bà
– Tuổi thơ khó khăn vất vả gian nan nhưng cháu được mà yêu thương, che chở
” bà dạy ”, bà chăm ” bộc lộ sâu đậm tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương vô bờ và sự chăm chút của bà so với cháu
+ Ngay cả trong gian khó, nguy hiểm của cuộc chiến tranh bà vẫn vững vàng – phẩm chất cao quý của những người mẹ Nước Ta anh hùng ( Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh )
+ Qua dòng hồi tưởng về bà, những dòng cảm hứng của nhân vật trữ tình chính là sự phối hợp, xen kẽ thuần thục giữa những yếu tố miêu tả, biểu cảm, tự sự, nỗi nhớ của người cháu biểu lộ tình yêu thương vô hạn so với bà

* Những suy ngẫm chiêm nghiệm về cuộc đời của bà cũng như hình tượng bếp lửa

– Suy ngẫm về cuộc sống bà
– Từ những kỉ niệm, hình ảnh bếp lửa luôn gắn với hình ảnh người bà
+ Hình ảnh bếp lửa kết tinh trong hình ảnh ngọn lửa : ngọn lửa của tình yêu thương, sự quyết tử luôn ủ sẵn trong lòng bà để làm sáng lên kỳ vọng, ý chí
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
+ Điệp ngữ “ một ngọn lửa ” nhấn mạnh vấn đề tình yêu thương ấm cúng bà dành cho cháu, người bà nhen nhóm những điều thiện lương tốt đẹp so với cháu
Hình ảnh người bà trong lòng cháu là người thắp lửa, giữ lửa và truyền lửa, truyền niềm tin, sức sống tới thế hệ tương lai
– Sự tần tảo, hi sinh của bà bộc lộ : “ Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa ” : sự chiêm nghiệm của cháu về cuộc sống bà
+ Cuộc đời bà đầy những gian nan, khó khăn vất vả, lận đận trải qua nắng mưa tưởng như không khi nào dứt
+ Điệp từ “ nhóm ” lặp lại bốn lần : người bà đã nhóm lên, khơi dậy những yêu thương, ký ức và giá trị sống tốt đẹp trong lòng người cháu
– Hình ảnh bếp lửa kết tinh thành hình ảnh ngọn lửa chất chứa niềm tin, kỳ vọng của bà
+ Người cháu như phát hiện ra điều kỳ diệu giữa đời sống đời thường “ Ôi lạ mắt và thiêng liêng – bếp lửa ” : người cháu thấm nhuần được tình yêu thương và đức hi sinh của bà

* Nỗi nhớ khắc khoải, khôn nguôi về người bà

– Lời tự bạch của đứa cháu khi trưởng thành, xa quê nhà : người cháu vẫn cảm thấy ấm cúng bởi tình yêu thương vô bờ của bà
– Kết thúc bài thơ tác giả tự vấn “ Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ? ” : niềm tin dai dẳng, nỗi nhớ luôn thường trực trong lòng người cháu

3. Kết bài:

– Tác giả rất thành công xuất sắc trong việc phát minh sáng tạo ra hình tượng mang ý nghĩa thực, mang ý nghĩa hình tượng : bếp lửa
– Kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự tương thích với dòng hồi tưởng và tình cảm của cháu

– Bài thơ chứa đựng triết lý, ý nghĩa thầm kín: những điều thân thiết của tuổi thơ của mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình cuộc đời, tình yêu thương và lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, quê hương

Top 13 bài Phân tích bài thơ Bếp lửa hay nhất (ảnh 1)

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Bếp lửa – mẫu 1

Mỗi tất cả chúng ta ai mà chẳng có quê nhà, ai mà chẳng có một thời đong đầy kỉ niệm để nhớ, để thương, để là động lực không ngừng phấn đấu. Nhà thơ Bằng Việt trong những năm tháng học tập xa nhà vẫn da diết nhớ quê nhà, với khói bếp lửa cay nồng hun nhoè mắt, cùng người bà tần tảo sớm hôm nuôi dạy cháu. Tất cả những kí ức đẹp tươi của tuổi thơ đó đã được tác giả dồn nén trong từng câu chữ qua bài thơ Bếp lửa. Bếp lửa là bài thơ được in trong tập thơ Hương cây, bếp lửa, in chung cùng nhà thơ Lưu Quang Vũ. Có thể nói Bếp lửa là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Bằng Việt. Ông sáng tác bài thơ này vào năm 1963, khi đang học tập tại Liên Xô. Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngọn lửa bập bùng cháy, ngọn lửa thực mà cũng chất chứa biết bao ý nghĩa
Một khung cảnh đơn sơ mà rất là quen thuộc hiện lên trước mắt người đọc. Ngọn lửa cháy bập bùng kia gợi nhắc biết bao nhớ thương, lòng biết ơn của người cháu xa xứ so với bà. Hai từ “ ấp iu ” gợi lên hình ảnh đôi bàn tay tảo tần của bà ngày ngày nhen nhóm ngọn lửa, thức khuya dậy sớm chăm cho cháu từng miếng ăn giấc ngủ. Và để từ đó trong cháu vỡ òa cảm hứng yêu dấu bà vô tận :
“ Cháu thương bà biết mấy nắng mưa ” .
Để rồi sau đó, biết bao kỉ niệm ùa về trong lòng nhà thơ, đó là những kỉ niệm mà tác giả chẳng thể quên. Về một nạn đói kinh khủng đã cướp đi sinh mạng biết bao dân cư Nước Ta :
“ Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay ”
Khi mà hàng loạt người chết đói, thì bà vẫn kiên cường, tần tảo sớm hôm, cho cháu củ khoai, mót từng củ sắn, dành trọn miếng ăn cho đứa cháu vượt qua cơn đói cồn cào. Nỗi ám ảnh đó vẫn lần sâu trong tâm chí tác giả, cái đói ghê rợn ấy, mà giờ chỉ cần nghĩ lại sống mũi cháu đã cay. Cái cay ấy không chỉ là mùi khói, mà cái cay ấy còn là những giọt nước mắt thương xót cho những nỗi cơ cực, khó khăn vất vả mà bà phải trải qua, là giọt nước mắt tri ân với tấm lòng bà dành cho cháu. Chỉ cần có bà thì mọi giông bão ngoài kia bà cũng chở che để vượt qua, bảo vệ cho cháu. Tám năm xa cha mẹ, Bằng Việt sống cùng bà, cũng là tám năm bà bên cháu bảo ban, nuôi dạy cháu nên người :
“ Mẹ cùng cha công tác làm việc bận không về ,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ? ”

Top 13 bài Phân tích bài thơ Bếp lửa hay nhất (ảnh 2)

Câu thơ mà thực như là lời kể lời giãi bày của tác giả, nhưng cũng chỉ cần có vậy thôi đã nói lên tấm lòng, sự tận tụy của bà so với cháu. Bà đã trở thành người cha, người mẹ dạy cháu khôn lớn, nên người. Cấu trúc “ ba-cháu ” cho thấy sự gắn bó khăng khít giữa. Nếu không có bà ở bên có lẽ rằng cũng sẽ không có cháu thành công xuất sắc, nên người của thời gian hiện tại. Tác giả đã dồn hết lòng kính yêu, sự tôn trọng dành cho người bà của mình. Sang đến khổ thơ tiếp theo, khung cảnh cuộc chiến tranh trở nên kinh khủng hơn, khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, để trơ trọi lại chỉ là những mảnh tro tàn. Nhưng bà không khuỵu ngã, mà vẫn vô cùng kiên cường, dưới sự trợ giúp của hàng xóm dựng lại túp lều tranh cho hai bà cháu có chỗ trú mưa trú nắng. Không chỉ vậy, sợ những con công tác làm việc ngoài chiến tuyến lo ngại, bà còn dặn trước Bằng Việt : “ Bố ở chiến khu bố còn việc bố / Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn được bình yên ”. Những lời dặn dò ấy đã nói lên hết tấm lòng hi sinh cao quý của bà mẹ Nước Ta anh hùng. Không chỉ chăm sóc, bảo ban cháu, bà còn nhóm lên trong cháu những tình cảm thiêng liêng xinh xắn :
“ Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm ,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi ,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui ,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ …
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa ! ”
Khổ thơ với điệp từ nhóm vang lên bốn lần, đã tạo nên một khung cảnh thiêng liêng, ấm cúng và đầy tình yêu thương. Bếp lửa ấy dạy cháu biết san sẻ, yêu thương những người xung quanh, bếp lửa ấy giúp cháu sống có mơ ước, khát vọng, vun đắp mơ ước cho cháu. Cũng thế cho nên, mà Bằng Việt phải tốt lên : “ Ôi kì quặc và thiêng liêng – bếp lửa ”. để chứng minh và khẳng định ý nghĩa vai trò của bếp lửa, hay chính của bà so với cuộc sống mình. Để rồi ngọn lửa của hơi ấm tình thương theo cháu đi muôn ngả, giúp cháu vươn đến thành công xuất sắc trong bước đường tương lai. Dù đã đi xa, đến những nơi đẹp tươi, đời sống sung túc nhưng cháu vẫn không khi nào quên hình ảnh bà, và vẫn tự nhắc nhở bản thân :
Nhưng vẫn chẳng khi nào quên nhắc nhở : – Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa ? Câu hỏi kết lại bài thơ như một lời nhắc nhở khắc khoải, khiến người đọc lưu giữ lại ấn tượng sâu đậm. Bằng ngôn từ mộc mạc, đơn giản và giản dị và tràn trề cảm hứng Bằng Việt đã bày tỏ tấm lòng biết ơn thâm thúy so với bà. Đồng thời với bài thơ này cũng gửi gắm thông điệp về ý nghĩa tầm quan trọng của mái ấm gia đình so với mỗi người. Chúng ta phải nâng niu, trân trọng tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy .

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Bếp lửa – mẫu 2

Trong cuộc sống, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiện nhất, nó có sức mạnh khác thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài dài và rộng của cuộc sống. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm lý của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta hoàn toàn có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời biểu lộ lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với mái ấm gia đình, quê nhà, quốc gia. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. ở nơi đất khách quê người, phát hiện hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà :
“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. ”
Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và tỏa sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc sống bà đã trải qua biết mấy nắng mưa. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng toàn cầu nhưng có vẻ như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên trì và khôn khéo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc sống này chắc người cháu không khi nào quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ. Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị và đơn giản như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu truyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu truyện cổ tích của những bạn cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu truyện của Bằng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm lý đứa cháu. Cháu khi nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu không thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói :
“ Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay ! ”

Video bài văn mẫu Phân tích bài thơ Bếp lửa

Chính mùi khói đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp những ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quyện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại không ít ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy sống mũi còn cay. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt ?
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế ! ”
Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê nhà, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm lý thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và có vẻ như đó cũng là một chiếc đồng hồ đeo tay của đứa cháu để nhắc bà rằng : Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy ! Từ ” tu hú ” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng tu hú lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái khoảng trống xa thẳm của nỗi nhớ thương. Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm :

Mẹ cùng cha bận công tác không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe ( … )
Trong tám năm ấy, quốc gia có cuộc chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, cha mẹ phải đi công tác làm việc, cháu cho nên vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời hạn ấy, nhưng có vẻ như so với đứa cháu như vậy lại là một niềm niềm hạnh phúc vô bờ. Ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như so với mỗi tất cả chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng tham vọng của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì so với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá so với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm sóc cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy tiên phong của cháu. Bà dạy cho cháu những vần âm, những phép tính tiên phong. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học kinh nghiệm quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học kinh nghiệm đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chãi về cả vật chất lẫn ý thức cho đứa cháu nhỏ bé. Cho nên khi giờ đây nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà san sẻ những câu truyện những ngày ở Huế … Thi sĩ bỗng tự hỏi lòng mình : ” Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà ? ” Một lời than phiền biểu lộ nỗi nhớ mong bà thâm thúy của đứa cháu nơi xứ người. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ bà, cháu đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời .

Liên kết:KQXSMB
Alternate Text Gọi ngay