Mot-so-con-trung–nhen–va-dong-vay-gay-hai-tren-cay-trong-2-157.html
Nhìn chung côn trùng, nhện và động vật hoang dã hại cây cối được chia thành các nhóm sau đây :
1. Nhóm sâu ăn lá
Gây hại bằng cách dùng miệng để ăn các bộ phận của cây cối, nhất là lá do bị sâu ăn khuyết nên cây xanh sinh trưởng và tăng trưởng kém, dẫn đến hiệu suất giảm, ngoài những vết thương do sâu gây hại còn là cửa ngõ để nấm và vi trùng khác xâm nhập và gây hại. Đặc điểm gây hại của nhóm nầy là thiệt hại nhiều khi xảy ra nhanh, gây hại trên diện rộng, nhưng đễ phát hiện và nếu phát hiện sớm tương đối dễ phòng trừ. Trên lúa thiệt hại do nhóm sâu ăn lá như sâu cuốn lá, sâu keo … trên rau cải, đậu, dưa như sâu tơ, sâu xanh, sâu xám … trên cây ăn trái, tiêu, cafe như sâu ăn lá, sâu ổ, câu cấu … để phòng trừ đối tượng người dùng nầy nên vận dụng các giải pháp tổng hợp như chọn giống thịch hợp, sạ, cấy trồng mật số thich hợp, không trồng dầy, gieo cấy hàng loạt, bón phân cân đối hợp lý, không dùng quá nhiều phân đạm, thăm đồng tiếp tục để phát hiện sớm và phòng trị kịp thời, hoàn toàn có thể dùng các thuốc trừ sâu gốc Cúc, Carbamate, thuốc gốc sinh học như Abamectin, Emamectin, gốc lân hữu cơ ( tôn trọng thời hạn cách ly ) có tính tiếp xúc, vị độc, xông hơi như Sec Sàigòn 10, 25, 50EC, Sherzol 205EC, Comda gold 5WDG, Comda 250 EC, Sapen alpha 5EC, Sairifos 585EC, Sago super 20EC, Gà nòi 95SP …
2. Nhóm sâu đục thân, đục trái
Gây hại bằng cách đục vào thân, cành, ngọn, bông, trái, rễ, do bị sâu đục vào bên trong nên tác động ảnh hưởng đến luân chuyển nước và các chất dinh dưỡng làm thân, cành, ngọn bị héo, bông, trái bị rụng tác động ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến hiệu suất cây cối. Đặc điểm của nhóm sâu đục thân là triệu chứng sớm khó phát hiện bằng mắt, một khi đã bộc lộ ra bên ngoài thì tương đối khó phòng trừ lại tốn kém và ít hiệu suất cao. Do đó điều quan trọng là cần phát hiện sớm bằng cách thăm đồng tiếp tục so với các giống dễ nhiễm và thời kỳ mà sâu đục thân thường Open. Trên lúa, hoàn toàn có thể nhắc đến sâu đục thân, sâu đục bẹ … trên cây ăn trái điển hình nổi bật là sâu đục trái, sâu đục thân, đục cành, đục ngọn …, trên cafe như mọt đục trái, xén tóc đục thân, cành, trên bắp như sâu đục thân, đục trái bắp, trên rau cải như sâu đục quả đậu, cà tím, cà chua … để phòng trừ đối tượng người dùng nầy cần vận dụng các giải pháp tổng hợp như nêu trên, trong đó chú trọng giải pháp giống và cần thăm đồng thướng xuyên để phát hiện sớm khi bướm mới Open hoặc sâu non mới chớm và phòng trị kịp thời, nếu phát hiện trể, khi sâu đã đục sâu vào bên trong việc phòng trừ ít hiệu suất cao và tốn kém vô ích. Về thuốc cần dùng thuốc có tính năng lưu dẫn, thấm sâu hoặc xông hơi như Diaphos 50 EC, 10G ( Diazinon ), Gà nòi 95SP, 4G ( Cartap ) hay Sairifos 585EC … nếu dùng sớm để trừ bướm hay sâu non hoàn toàn có thể dùng các thuốc trừ sâu ăn lá như nói bên trên. Chú ý khi dùng nên quan tâm thời hạn cách ly .
3. Nhóm chích hút
Đây là nhóm gây hại phổ cập và phong phú nhất trên nhiều loại cây cối và cũng là nhóm khó phòng trị nhất gồm có các loại rầy, rệp, nhện hại, bọ trĩ … Đặc điểm gây hại của nhóm chích hút là thường gây hại vào mùa khô, thời tiết nắng nóng, khô hạn và trên các mô mềm như trái, lá, thân, cành còn non, ngoài việc chích hút nhựa, côn trùng và nhện hại còn bơm độc tố vào vết chích hút và giúp Viral bệnh virus. Trên lúa hoàn toàn có thể kể đến bọ trĩ, rầy nâu, rầy xanh, rầy bông, nhện gié, bọ xít hôi, bọ xít đen … trên tiêu cây ăn trái : Các loại nhện đỏ, nhện vàng, rầy chổng cánh, nhện lông nhung, rầy bông, rầy mềm, rệp sáp, bọ trĩ … trên cafe : rêp sáp, rệp vẩy nâu, rệp vẩy xanh, rầy mềm, rệp dinh, nhện đỏ … Trên tiêu rệp sáp, rệp sáp gốc, rầy mềm, rệp dinh, nhện đỏ … trên rau cải : Nhện đỏ, bọ trĩ, rầy mềm, rệp sáp … Để phòng trị nhóm nầy, cũng nên vận dụng các giải pháp tổng hợp, quan tâm thời vụ canh tác và giống. Về thuốc BVTV nên chú ý quan tâm thuốc có tính tiếp xúc, lưu dẫn, thấm sâu và xông hơi thuốc nhóm Cúc tổng hợp, Carbamate, Lân hữu cơ, tổng hợp sinh học như Sairifos 585EC, Comda gold 5WG, Saromite 57EC, Butyl 10WP, Mipcide 20 EC, Sago super 20EC, 3G, Schezgold 500 WG, Sagometro 500WG đặc biệt quan trọng thuốc có tính xua đuổi và biến hóa tập tính hoạt động và sinh hoạt như đẻ trứng, chích hút như dầu khoáng SK Enspray 99EC là rất quan trọng. Một điều quan trọng cần chú ý quan tâm la khi phun cần chú ý quan tâm chỉnh bét phun cho mịn hạt và cần phun nhiều nước .
4. Tuyến trùng
Tuyến trùng là dịch hại phổ cập còn thấy trên nhiều cây xanh khác như tiêu, cafe, các loại cây ăn trái, rau, củ quả, dưa, đậu … khác với sâu, bệnh hại, triệu chứng dễ thấy và sâu, bệnh dễ nhận diện và hoàn toàn có thể phòng trừ sớm. Tuyến trùng ngược lai, khó thấy do nhỏ lại sống trong đất, khi cây bị hại nặng triệu chứng mới lộ ra bên ngoài, khi ấy, phòng trị ít hiệu suất cao và tốn kém .
Tuyến trùng có kích thước rất nhỏ, mắt thường khó thấy, hầu hết có dạng hình giun, một số ít có dạng tròn hay bầu dục. Số loài tuyến trùng ước khoảng 1 triệu loài, tuy nhiên chỉ mới có khoảng 28.000 loài được mô tả. Tuyến trùng phá hại bằng cách dùng kim chích vào mô thực vật để hút nước và chất dinh dưỡng. Tuyến trùng sống và gây hại chủ yếu trong đất, tuy nhiên có loại có thể gây hại trên thân, lá…. Trên rễ triệu chứng đặc trưng là rễ có các nốt u sần, rễ cong queo, phát triển kém, nguyên nhân do tuyến trùng khi hút chất dinh dưỡng còn bơm độc tố vào rễ, làm rễ bị nghẽn mạch và phù to tạo nên các nốt u sần khiến chức năng hấp thu nước và các chất dinh dưỡng bị ảnh hưởng khiến cây còi cọc… ngoài ra vết thương do tuyến trùng chích hút trên rễ, còn tạo điều kiện để vi khuẩn, nấm hại trong đất xâm nhập và gây hại khiến thiệt hại càng nặng nề hơn, thường các triệu chứng do tuyến trùng thể hiện chủ yếu trong mùa mưa, nhất là giữa hay cuối mùa mưa, đầu mùa nắng nguyên nhân do vào thời điểm nầy đất khô hạn và cây thiếu nước, khi có nước và bón phân đầy đủ, cây có xu hướng phục hồi. Để phòng trừ tuyến trùng cần phải áp dụng các biện pháp tổng hợp như cần (1) Đào mương thoát thủy để hạn chế tuyến trùng lây lan, (2) tăng cường bón vôi (Vì tuyến trùng thích đất chua, pH thấp), (3) tăng cường bón phân hữu cơ hoai mục ( Vì trong phân hữu cơ hoai mục có nhiều vi sinh vật và tuyến trùng có ích), (4) trồng các cây có tính xua đuổi tuyến trùng như cây vạn thọ, mè, hướng dương…(5) cuối cùng nếu tuyến trùng gây hại trên diện rộng, có thể phải cần thiết dùng thuốc hóa học như Saburan 10 H, Diaphos 10G… chú ý thuốc trừ tuyến trùng thường rất độc, do đó cần cẩn thận khi dùng và nên chú ý tôn trọng thời gian cách ly.
Pratylenchus trên cafe
5. Ốc Bươu vàng.
Đây là dịch hại ngoại lai, nguồn gốc từ Brazil, gia nhập vào Nước Ta khoảng chừng năm 1985, thiệt hại ghi nhận tiên phong vào năm 1994 tại Kiên Giang và TP.HCM. OBV chỉ sống trong điều kiện kèm theo nước ngọt, ruộng chua, phèn, độ pH < 4 hay độ mặn > 0,6 % ốc không sống được. OBV gây hại bằng cách cắn đứt mạ từ khi sạ đến khoảng chừng 20 ngày sau. Ruộng sạ hại nặng hơn ruộng cây. OBV có con đực, cái phân biệt, tỷ suất đực / cái khoảng chừng 3/7. Vòng đời ( đẻ – bắt cặp – đẻ lại ) khoảng chừng 3 tháng, tuy nhiên ốc hoàn toàn có thể sống tới 3 năm. Trứng được đẻ trên cao, ổ trứng có màu hồng tươi, khi sắp nở có màu hồng nhạt, 1 ổ có khoảng chừng 150 – 300 trứng, tỷ suất nở 90 – 95 %. Trung bình 1 OBV cái hoàn toàn có thể đẻ 500 – 1000 trứng / tháng. OBV sống và gây hại đa phần trong nước, tuy nhiên ốc cũng hoàn toàn có thể sống trên cạn, trong điều kiện kèm theo bất lợi ( khô hạn ) ốc vùi mình xuống đất, khi có điều kiện kèm theo thuận tiện ( ruộng có nước ) ốc trồi lên cắn phá trở lại. OBV hoàn toàn có thể gây hại suốt ngày đêm, tuy nhiên thường gây hại hầu hết chiều – tối. Thiên địch của OBV là kiến, chim, chuột, vịt, rắn, cá … và con người .
Để phòng trị OBV cần phải vận dụng tổng hợp các giải pháp, phải làm liên tục, rộng khắp và làm sớm trước khi mùa vụ mở màn. Các giải pháp gồm có đặt lưới chắn ở cống, bộng dẫn nước, vét rãnh, bắt ốc bằng tay, cắm cọc thu gom trứng, cày bừa kỹ, cày sâu, đưa nước vào ruộng sớm ( trước khi sạ ) nhử ốc trồi lên rồi diệt, sau khi sạ không đưa nước vào ruộng sớm, chỉ giữ ruộng đủ ẩm, sử dụng thuốc diệt ốc như DIOTO 250EC, Dioto 830WG ( pha nước phun ) hay Tatoo 150B, Bosago 12AB ( rải ) … sau thu hoạch ( nếu điều kiện kèm theo được cho phép ) thả vịt ăn ốc để hạn chế lứa sau. Cần quan tâm nếu phòng trị bằng thuốc hóa học nên theo đúng hướng dẫn trên nhãn và hoàn toàn có thể pha thêm ít rỉ đường để tăng tính dẫn dụ .
6.Chuột hại
Chuột l dịch hại quan trọng trn cy trồng nhất là lúa, rau, cây ăn trái. Chuột có mắt không tốt lắm, không nhìn thấy xa, không phân biệt được sắc tố, bù lại chuột có năng lực cảm nhận mùi, vị thức ăn rất tốt. Chuột rất thính tai, rất nhanh gọn, leo trèo, đào đất nhanh, lượn lờ bơi lội thuận tiện, hầu hết phá hại về đêm. Chuột không có răng nanh, nhưng cĩ răng cửa mạnh v mọc di. Chuột có tính đa nghi, hay hoài nghi chổ lạ, thức ăn lạ, thường sống trong hang, nhất là ở bờ ruộng lúa. Khi lúa chín, chuột rời hang, vào sống trong ruộng, nhiều khi làm tổ trên cây lúa. Chuột không thích nước, do đó, năm nào hạn nặng, năm đó chuột nhiều. Khi chuột chưa trưởng thành, khó phân biệt chuột đực, chuột cái bằng mắt. Trn đồng khi thiếu thức ăn, do bệnh tật hoặc quá đông đúc, chuột sẽ di cư sang nơi khác. Thời gian sống của chuột khoảng chừng 1 năm, trong đó chuột cái sống lâu hơn chuột đực. Chuột ăn tạp, ăn đa phần thực vật xanh, ngoài những chuột còn ăn cả cá con, ốc sên, ốc bươu vàng, cua … Thời gian trưởng thnh của chuột khá sớm. Sau khi đẻ xong, khoảng chừng 1 – 2 tháng sau, chuột sẽ bắt cặp trở lại để đẻ tiếp lứa mới. Trung bình một năm chuột đẻ 4 – 6 lứa, mỗi lứa trung bình có 5 – 12 con. Chuột hầu hết gây hại vào đêm hôm. Trên ruộng, chuột đa phần phá hại vào quy trình tiến độ đòng – trổ. Nếu bị hại sớm, lúa hoàn toàn có thể hồi sinh, tạo ra dảnh ( tp ) mới, nhưng khi chín sẽ không đều. Nếu bị hại muộn, lúa không phục sinh được, không cho hiệu suất .
Chuột có nhiều thiên địch như rắn, trăn, chim săn chuột, mèo, chó, bệnh hại … nhưng địch quan trọng nhất của chuột chính là con người. Công tác diệt chuột cần làm sớm ngay từ đầu vụ, làm hàng loạt, liên tục, đều khắp và có sự tham gia gia của hội đồng .
Phòng trị:
( 1 ) Xác định thời vụ thích hợp, nên gieo trồng, thu hoạch hàng loạt, ( 2 ) Không nên trồng quá nhiều loại cây cối trên đồng, ( 3 ) Vệ sinh đồng ruộng tốt, ( 4 ) Bảo vệ thiên địch của chuột, ( 5 ) Bẫy cây xanh : Trên mỗi cánh đồng, chọn vi mảnh ruộng, trên đó trồng sớm v trồng lúa thơm để mê hoặc chuột, ruộng bẫy được rào nylon quanh ruộng, trong ruộng đặt lồng để bắt chuột. Cần thăm đồng tiếp tục để nhặt chuột, rắn … chui vào lồng và tu sửa khi thiết yếu, ( 6 ) Dùng nước để hạn chế và giết chuột : Nếu hoàn toàn có thể, giữ mức nước cao trong ruộng vào quy trình tiến độ đòng – trổ để hạn chế chuột làm tổ ven bờ, ( 7 ) Tổ chức săn đuổi : bằng nhiều giải pháp như đào hang, đánh bẫy, xông khói, dùng chó săn hay dùng máy cày quần bắt chuột, ( 8 ) Biện pháp xông hơi trừ chuột bằng đất đèn ( khí đá ), lưu huỳnh, đốt rơm trộn ớt khô, xông khói lưu huỳnh cũng khá hiệu suất cao, lại rẻ tiền, không gây ô nhiễm … ( 8 ) Đánh bã : Zinphos 20 % vào theo liều khuyến nghị. Cần làm liên tục vài ngày, rồi thu hết bã độc, mang đi tiêu hủy, ( 9 ) Bắt chuột dùng làm thực phẩm : Đây là giải pháp trừ chuột rất hiệu suất cao, lại cải tổ thu nhập đáng kể. Thịt chuột rất ngon, có giá trị dinh dưỡng cao, là nguồn đạm bổ trợ quí giá cho khu vực nông thôn có thu nhập thấp .
Source: https://suachuatulanh.edu.vn
Category : Nhà Cửa